TS. Chu Bích Ngọc

Khoa Thống kê, Trường Công nghệ, Đại học Kinh tế quốc dân

Email: Ngoccb@gmail.com

Tóm tắt

Ngoại giao kinh tế đã và đang là nhiệm vụ quan trọng trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương gắn kết chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại; gắn kết ngoại giao với kinh tế. Trong thời gian qua, ngoại giao kinh tế đã có những đóng góp thiết thực và hiệu quả vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Đất nước. Trên cơ sở phân tích vai trò của ngoại giao kinh tế trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy, phát huy hiệu quả của ngoại giao kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

Từ khóa: Ngoại giao kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam

Summary

Economic diplomacy constitutes a critical task within the Party and State’s consistent policy of integrating political diplomacy with economic diplomacy and harmonizing foreign affairs with economic development. In recent years, economic diplomacy has made substantive and effective contributions to the country’s socio-economic development and international integration. Based on an analysis of the role of economic diplomacy in the process of national renovation and development, this study proposes several solutions to promote and further enhance the effectiveness of economic diplomacy in the current context of deepening international integration.

Keywords: Economic diplomacy, international economic integration

ĐẶT VẤN ĐỀ

Cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế đã và đang trở thành một trong những nhân tố quan trọng, mang tính quyết định trong các hoạt động ngoại giao của một quốc gia. Tại Việt Nam, ngoại giao kinh tế đã góp phần kết nối nền kinh tế trong nước với các nền kinh tế trên thế giới; kết nối doanh nghiệp; kết nối chuỗi cung ứng; thúc đẩy đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA); khai thác các thị trường truyền thống và khai mở những thị trường mới; thu hút nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu phục vụ quá trình phát triển, hiện đại hóa đất nước. Từ đó, góp phần tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu và đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ 8,3-8,5% trong năm 2025 và tăng trưởng 2 con số vào những năm tiếp theo.

Trong bối cảnh quốc tế đang biến đổi nhanh chóng, liên tục tạo ra những cơ hội phát triển đột phá, đồng thời đặt ra những thách thức chưa từng có tiền lệ; các vấn đề an ninh, đặc biệt là an ninh phi truyền thống, nổi lên trên phạm vi toàn cầu, không chỉ đe dọa tăng trưởng kinh tế mà còn có nguy cơ làm suy giảm năng lực phát triển của nhiều nền kinh tế…, việc tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, huy động hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, mở rộng không gian hợp tác và thị trường, qua đó góp phần nâng cao vị thế cũng như năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế, trở nên hết sức cần thiết.

THỰC TRẠNG NGOẠI GIAO KINH TẾ VIỆT NAM

Về chủ trương, đường lối, chính sách ngoại giao kinh tế của Đảng và Nhà nước

Xác định vai trò quan trọng của công tác đối ngoại, đặc biệt là ngoại giao kinh tế đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác đối ngoại kinh tế. Cụ thể, ngày 15/4/2010, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc triển khai Chỉ thị đã tạo bước chuyển biến tích cực trong hoạt động ngoại giao kinh tế, góp phần quan trọng tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam và thúc đẩy tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Ngày 10/8/2022, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW về việc đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, mang tính định hướng cao, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế một cách toàn diện, thực chất trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, tập trung vào các nhiệm vụ nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và đường lối đối ngoại mà Đảng đã đề ra.

Để thể chế hóa các chủ trương đường lối của Đảng, ngày 10/2/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2003/NĐ-CP về hoạt động của cơ quan đại diện ở nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, đẩy mạnh đổi mới toàn diện và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hoạt động ngoại giao kinh tế của Việt Nam. Ngày 2/6/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 667/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chọn lọc, chất lượng, chú trọng các ngành công nghệ cao, công nghiệp chế biến - chế tạo tiên tiến, năng lượng sạch và phát triển bền vững. Ngày 20/2/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW. Theo đó, Nghị quyết số 21/NQ-CP quán triệt ngoại giao kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản và trọng tâm của ngoại giao Việt Nam hiện đại, đóng vai trò như động lực thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Công tác này được đặt trong mối liên hệ mật thiết với yêu cầu huy động hiệu quả nguồn lực bên ngoài, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng, góp phần xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả... (Nguyễn Văn Lịch, Trần Hồng Anh, 2025).

Kết quả ngoại giao kinh tế trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế

Ngoại giao kinh tế góp phần quan trọng hiện thực hóa chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trong quan hệ song phương, các hoạt động ngoại giao kinh tế đã góp phần tích cực thúc đẩy các mối quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước lớn để phục vụ kinh tế. Trong tham gia các thể chế đa phương khu vực, toàn cầu và hội nhập quốc tế, các hoạt động ngoại giao kinh tế đã góp phần tích cực trong thiết lập quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước châu Á, châu Âu, châu Đại Dương, châu Mỹ, châu Phi (Bùi Thị Huyền, 2024). Việc triển khai quan hệ hợp tác đa phương nhằm mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế như: xây dựng, vun đắp mối quan hệ Việt Nam - ASEAN, Việt Nam - EU, trở thành thành viên tích cực của ASEM, gia nhập APEC...

Tính đến năm 2025, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Các mối quan hệ ngày càng đi vào chiều sâu, bền vững hơn, đặc biệt là việc hình thành khuôn khổ quan hệ với 38 quốc gia, trong đó có 13 đối tác chiến lược toàn diện, 10 đối tác chiến lược và 15 đối tác toàn diện. Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã tạo dựng cục diện đối ngoại rộng mở và thuận lợi hơn bao giờ hết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ chỗ chỉ có quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, đến nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt gần 800 tỷ USD, gia nhập nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; thu hút được hơn 500 tỷ USD vốn FDI, trở thành nước đang phát triển thu hút FDI hàng đầu thế giới (Lương Cường, 2025). Với các nước ASEAN, hiện Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao cao cấp với 9/9 nước thành viên, trong đó có 5 nước là Đối tác chiến lược và 2 nước là Đối tác toàn diện; 2 nước còn lại là Campuchia và Lào là quan hệ đặc biệt (Bùi Thị Huyền, 2024).

Trong hợp tác kinh tế đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm tại các cơ chế khu vực và quốc tế quan trọng như: WTO, APEC, ASEM, ASEAN, Hợp tác tiểu vùng Mê Kông..., qua đó mở ra nhiều cơ hội thương mại và đầu tư mới cho Việt Nam, góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế và phát triển xuất khẩu, tăng trưởng GDP. Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong kinh tế thế giới và ngày càng gia tăng vị thế trong chuỗi sản xuất toàn cầu với 17 FTA, trong đó có nhiều FTA thế hệ mới, hơn 500 hiệp định song phương và đa phương, qua đó giúp đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, đồng thời tạo ra những động lực đổi mới trong nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế (Lương Cường, 2025). Thông qua các hoạt động ngoại giao cụ thể, tích cực, chủ động, đặc biệt là chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác lớn, thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ngoại giao kinh tế Việt Nam đã tranh thủ được nguồn ngoại lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong 6 tháng đầu năm 2025, công tác ngoại giao kinh tế tiếp tục được triển khai đồng bộ, toàn diện với tinh thần quyết liệt, chủ động, thực chất, mở ra nhiều hướng đi mới, đạt nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể, đã chủ động thúc đẩy nội hàm kinh tế trong các hoạt động đối ngoại, đặc biệt là đối ngoại cấp cao, góp phần huy động tối đa nguồn lực bên ngoài, khai thác hiệu quả quan hệ chính trị đối ngoại tốt đẹp để thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025, tạo đà tăng trưởng hai con số giai đoạn tiếp theo (Anh Thơ, 2025).

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành tích cực thúc đẩy đàm phán FTA mới với các thị trường lớn tiềm năng (Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC), Liên minh thuế quan miền Nam Châu Phi (SACU), Brazil, Bangladesh, Ai Cập…); khai thác hiệu quả các FTA đã ký kết. Tích cực tháo gỡ các rào cản thị trường, vận động các thành viên EU phê chuẩn. Bên cạnh đó, phát huy vai trò chủ động, tham gia tích cực, đóng góp thực chất tại các diễn đàn đa phương, nâng cao uy tín và vị thế đất nước, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển. Việt Nam cũng tổ chức thành công Diễn đàn Tương lai ASEAN, Hội nghị thượng đỉnh P4G…, tiếp tục khẳng định tâm thế, vị thế mới của Đất nước và thúc đẩy nhiều kết quả hợp tác cụ thể về kinh tế, thương mại, đầu tư… (Anh Thơ, 2025).

Cùng với đó, tiếp tục làm mới, đẩy mạnh hơn nữa các động lực tăng trưởng truyền thống, thông qua tăng cường hợp tác về thương mại, đầu tư, du lịch, lao động với các thị trường lớn, các đối tác đầu tư chủ chốt, quan trọng, nhất là khu vực Đông Bắc Á, Châu Âu, Châu Mỹ. Đồng thời, triển khai quyết liệt, hiệu quả chủ trương đa dạng hóa thị trường, đối tác, tạo đột phá ở một số thị trường mới, tiềm năng như Mỹ Latinh, Trung Đông - châu Phi, Trung Á, Trung Đông Âu...

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Trong thời gian qua, mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, công tác ngoại giao kinh tế vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: nhận thức và năng lực triển khai của các cơ quan làm công tác ngoại giao kinh tế chưa đồng đều; công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược còn hạn chế; thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phổ biến sâu rộng tới địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều địa phương chưa chủ động tận dụng cơ hội từ FTA... Trong bối cảnh đó, để phát huy hiệu quả ngoại giao kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, trong thời gian tới, cần chú trọng một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của ngoại giao kinh tế trong bối cảnh hiện nay. Theo đó, ngoại giao kinh tế góp phần bảo đảm và nâng cao an ninh kinh tế đất nước, nâng cao tự chủ chiến lược, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; để phát triển nhanh và bền vững cần tận dụng tối đa các thời cơ, cơ hội, nguồn lực bên ngoài, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Công tác ngoại giao kinh tế không chỉ của một đơn vị mà của toàn ngành Ngoại giao, các bộ, ban, ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người dân với mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.

Hai là, tiếp tục đưa quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn, các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định, thực chất, bền vững, lâu dài trên cơ sở tin cậy, chân thành, hài hòa lợi ích, tạo lập những đột phá mới, giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn phát sinh, các vướng mắc trong quan hệ. Thúc đẩy thương mại hài hòa, bền vững với các đối tác lớn, đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá chuỗi cung ứng; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các khuôn khổ hợp tác mới, nhất là với các quốc gia mới nâng cấp quan hệ ngoại giao, các khu vực tiềm năng như Trung Đông, Đông Âu, Mỹ La-tinh, Trung Á, Pakistan, Ai Cập, Ấn Độ, Brazil…

Ba là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan trong việc tăng cường thúc đẩy hợp tác với các đối tác nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư, gia tăng tốc độ và sức mạnh tổng thể phục vụ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nước trên cơ sở bảo đảm thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. Trong đó, cần quan tâm và chú trọng, ưu tiên dành nhiều nguồn lực cho các dự án mang tính cộng đồng, toàn cầu, như chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số.

Bốn là, các cơ quan đại diện, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề, các cơ quan liên quan cần phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với tinh thần "ngoại giao kinh tế là một trong những trọng tâm của ngoại giao thời đại mới" theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm nhằm tăng tốc, bứt phá, cụ thể hóa, triển khai ngay các thỏa thuận cấp cao, tận dụng tối đa các thời cơ, cơ hội. Tiếp tục chú trọng, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, tham mưu thông qua việc theo dõi sát diễn biến, tình hình, chủ động kiến nghị các giải pháp ứng phó kịp thời, phù hợp, không để bị động, bất ngờ, nhất là bất ngờ chiến lược.

Năm là, tập trung thu hút và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án FDI chất lượng cao, công nghệ cao, quy mô lớn, có tính lan tỏa mạnh mẽ, các dự án hạ tầng giao thông, có giá trị gia tăng cao, các dự án đầu tư lớn, trọng điểm, từ đó tiếp đưa Việt Nam trở thành điểm đầu tư vốn FDI hấp dẫn nhất khu vực.

KẾT LUẬN

Trong thời gian qua, ngoại giao kinh tế đã góp phần quan trọng trong hoạch định đường lối, xây dựng và thực thi các chính sách phát triển kinh tế đất nước; mở rộng các quan hệ song phương; thúc đẩy các quốc gia tham gia các thể chế đa phương trong khu vực và toàn cầu cũng như quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới, công tác ngoại giao kinh tế sẽ tập trung vào việc chủ động, tích cực triển khai hiệu quả Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong triển khai các hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm mang lại các kết quả tích cực, đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế, thúc đẩy hiệu quả hội nhập quốc tế và không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Anh Thơ (2025). Công tác ngoại giao kinh tế được triển khai cụ thể, thực chất, mở ra nhiều hướng đi mới. Báo điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/cong-tac-ngoai-giao-kinh-te-duoc-trien-khai-cu-the-thuc-chat-mo-ra-nhieu-huong-di-moi-102250722211218717.htm.

2. Ban Bí thư (2010). Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 15/4/2010, về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3. Bộ Chính trị (2022). Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 về việc đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030.

4. Bùi Thị Huyền (2024). Ngoại giao kinh tế trong đổi mới và hội nhập quốc tế. Tạp chí Lý luận chính trị số 546 (tháng 8-2023).

5. Chính phủ (2023). Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 20/2/2023 về Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW.

6. Hà Văn (2025). Thủ tướng: Tăng tốc, bứt phá thúc đẩy ngoại giao kinh tế. Báo điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-tang-toc-but-pha-thuc-day-ngoai-giao-kinh-te-102250722214739497.htm.

7. Lương Cường (2025). Ngoại giao Việt Nam - 80 năm xây dựng, trưởng thành cùng đất nước. Báo Quân đội Nhân dân. https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/ngoai-giao-viet-nam-80-nam-xay-dung-truong-thanh-cung-dat-nuoc-842762.

8. Nguyễn Văn Lịch, Trần Hồng Anh (2025). Công tác ngoại giao kinh tế: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy. Tạp chí Cộng sản. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1131102/cong-tac-ngoai-giao-kinh-te--thuc-trang-va-giai-phap-thuc-day.aspx.

9. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 2/6/2022 phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 20/9/2025; Ngày duyệt đăng: 23/9/2025