Giải pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng
Phan Đinh Nam Trường
Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam
Email: phandinhnamtruong@gmail.com
Tóm tắt
Ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng được xem là giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn số hóa trong quá trình chuyển đổi số, hỗ trợ tích cực cho chiến lược ngân hàng số của ngành ngân hàng. Trên cơ sở đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong quá trình chuyển đổi số của ngành ngân hàng.
Từ khóa: Công nghệ số, chuyển đổi số, ngân hàng số, Fintech
Summary
The application of digital technologies in banking operations is regarded as the next phase following digitization in the digital transformation process, providing strong support for the implementation of digital banking strategies within the banking sector. Based on an assessment of the current state of digital technology adoption in banking activities, this paper proposes several solutions to promote the application of digital technologies in the sector’s digital transformation process.
Keywords: Digital technology, digital transformation, digital banking, Fintech
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Phạm Xuân Hòe (2021), chuyển đổi số trải qua 3 giai đoạn chính: từ việc chuyển đổi các quy trình thủ công, truyền thống của đơn vị sang quy trình số, trực tuyến (được xem là giai đoạn số hóa); sau đó chuyển sang giai đoạn chuyển đổi kỹ thuật số, công nghệ số được thúc đẩy ứng dụng trong giai đoạn này; tiếp đến là giai đoạn tái tạo số, thông qua sự kết nối giữa công nghệ và nền tảng kỹ thuật số chưa có trước đây để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng với các sản phẩm, dịch vụ mới sáng tạo.
Công nghệ số được xem là những công nghệ tiên tiến được ứng dụng vào các giai đoạn tiếp theo của việc chuyển đổi số sau khi đã trải qua giai đoạn số hóa. Khi hệ thống đã có dữ liệu được số hóa, các công nghệ như: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), công nghệ chuỗi khối (Blockchain)… sẽ được sử dụng để phân tích dữ liệu, biến đổi và tạo ra giá trị mới. Ở mức công nghệ số này, ứng dụng sẽ mở ra những dạng thức đổi mới, sáng tạo trong cả một ngành hay lĩnh vực thay vì chỉ nâng cấp hay chuyển đổi các quy trình, thủ tục truyền thống.
Ứng dụng công nghệ số là xu hướng tất yếu, mọi tổ chức đều tận dụng tính ưu việt của công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh với đối thủ. Đối với lĩnh vực ngân hàng, ứng dụng công nghệ số mang lại những lợi ích quan trọng như: tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới để có cơ hội tiếp cận được nhiều khách hàng hơn, xóa bỏ ranh giới vật lý trong hoạt động kinh doanh, quan trọng là loại bỏ được các bước trung gian, tối ưu hóa quy trình, nghiệp vụ, tiết kiệm chi phí hoạt động và mang lại lợi ích, sự tiện lợi cho khách hàng.
Ứng dụng công nghệ số trong ngành ngân hàng tại Việt Nam đã và đang có những tác động tích cực đến mô hình hoạt động, tạo nên sự chuyển đổi mạnh mẽ đối với hệ thống nghiệp vụ nội bộ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến phục vụ khách hàng. Trong bối cảnh đó, việc đánh giá đúng thực trạng để có cơ sở xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong quá trình chuyển đổi số của ngành ngân hàng là cần thiết
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ TẠI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Những kết quả đạt được
Thực hiện chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ về việc chủ động trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), Chương trình chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 phê duyệt “Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Kế hoạch đặt ra mục tiêu đổi mới toàn diện hoạt động quản lý của NHNN theo hướng hiện đại, ứng dụng hiệu quả các thành tựu của CMCN 4.0, đặc biệt là rà soát và hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho hoạt động hệ thống ngân hàng ứng dụng công nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số; đồng thời phát triển các mô hình ngân hàng số, cung ứng dịch vụ ngân hàng an toàn, tiện lợi, gia tăng tiện ích và trải nghiệm cho khách hàng.
Các công nghệ tiên tiến như: Internet vạn vật (IoT), AI, điện toán đám mây và giao diện lập trình ứng dụng (API) đã được áp dụng để định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị và thanh toán điện tử. Một trong những bước đột phá đáng chú ý là việc Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) hợp tác với Tập đoàn công nghệ IBM ra mắt hệ thống BIDV Open API vào ngày 29/11/2023. Hệ thống này đã giúp BIDV mở rộng kênh phân phối dịch vụ ngân hàng, hình thành hệ sinh thái tài chính qua liên kết giữa ngân hàng và các đối tác. Các ứng dụng như: quản lý bán hàng, khách sạn, trường học, logistics được tích hợp chức năng thu hộ và gạch nợ hóa đơn tự động, giúp đơn giản hóa quản lý doanh thu và tăng tiện ích cho khách hàng. Sau 5 tháng triển khai, BIDV đã ghi nhận 90.000 lượt gọi API và dự kiến đến hết năm 2025 sẽ phục vụ hơn 500.000 khách hàng doanh nghiệp, 1 triệu khách hàng tiểu thương và hàng triệu khách hàng cá nhân (BIDV, 2024).
Bên cạnh đó, dịch vụ BaaS (Banking as a Service) của NHTMCP Quân đội (MB) cũng cho phép doanh nghiệp quản trị giao dịch chi tiết theo thời gian thực, tối ưu hóa vận hành và tiết kiệm chi phí. Việc tích hợp API không chỉ giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa chức năng vận hành, mà còn mở rộng hệ sinh thái số như: logistics cảng biển, du lịch, dịch vụ và bất động sản. Đặc biệt, MB cùng Công ty CP Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS) đã phát triển thành công mã QR, giúp khách hàng từ Thái Lan và Campuchia có thể thanh toán dễ dàng tại Việt Nam và ngược lại, góp phần tăng cường thanh toán xuyên biên giới và mở rộng mạng lưới khách hàng quốc tế.
NHTMCP Tiên Phong (TPBank) đã tiên phong triển khai hệ thống ngân hàng tự động 24/7 Live Bank đầu tiên tại Việt Nam, đáp ứng gần như toàn bộ các nhu cầu giao dịch với tốc độ nhanh, chính xác và độ bảo mật cao. Nhờ hệ thống này, khách hàng có thể mở thẻ lấy ngay trong 5 phút, thực hiện các giao dịch nộp hoặc rút tiền chỉ trong 1 giây; vay vốn nhanh chóng chỉ với 1 phút đăng ký.
Bên cạnh đó, NHTMCP Quốc tế (VIB) đã ứng dụng AI và Big Data để tối ưu hóa quy trình duyệt cấp thẻ tín dụng VIB Online Plus. Nhờ công nghệ này, khách hàng có thể đăng ký mở thẻ trực tuyến qua máy tính hoặc điện thoại mà không cần đến trực tiếp ngân hàng; đồng thời nhận được thông báo duyệt cấp thẻ chỉ sau 30 phút nếu đáp ứng đủ các tiêu chí. Điều này đã cải thiện đáng kể hiệu suất xử lý hồ sơ và giảm thiểu các thủ tục phức tạp, góp phần nâng cao sự hài lòng của khách hàng.
Ngoài việc đầu tư các ứng dụng công nghệ số, nhiều NHTM tại Việt Nam đã hình thành quan hệ hợp tác với các công ty công nghệ tài chính (Fintech). Điển hình, NHTMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) đã hợp tác với 7 công ty khởi nghiệp Fintech hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đáng chú ý là sự hợp tác với Tập đoàn Opportunity Network để cung cấp nền tảng kết nối hơn 15.000 doanh nghiệp ở 113 quốc gia, giúp các doanh nghiệp trong nước dễ dàng mở rộng thị trường quốc tế (Nguyễn Anh Tuấn, 2025). Đây là một bước tiến lớn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập sâu rộng với thị trường toàn cầu.
NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) cũng nổi bật với sự hợp tác cùng Công ty TNHH Fintech Fastacash để phát triển tính năng F@st Mobile, hỗ trợ chuyển tiền qua Facebook và Google+, tạo sự linh hoạt và tiện ích cho người dùng. Bên cạnh đó, MB kết hợp với Công ty TNHH Boomerang Technology giúp khách hàng kiểm tra số dư, gửi tiền, mua bảo hiểm và đăng ký khoản vay trực tiếp trên Facebook và Messenger, góp phần đơn giản hóa các dịch vụ ngân hàng.
Đặc biệt, sự hợp tác giữa Tập đoàn Be Group và NHTMCP Việt Nam Thịnh vượng (VPBank) đã tạo ra ngân hàng số Cake by VPBank, thu hút hơn 2,3 triệu khách hàng chỉ sau 20 tháng ra mắt nhờ ứng dụng công nghệ định danh và xác thực khách hàng điện tử (eKYC) và điện toán đám mây. Cùng xu thế này, Ngân hàng TNHH một thành viên CIMB Việt Nam và CTCP Finhay đã phát hành thẻ đồng thương hiệu CIMB - Finhay, cung cấp đa tiện ích trên ứng dụng Finhay, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dùng.
Ngoài ra, các ngân hàng còn đẩy mạnh hợp tác với các công ty Fintech trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay. Tiêu biểu là gói sản phẩm cho vay tiêu dùng COM-B, kết quả từ sự hợp tác giữa Công ty TNHH Credify và NHTMCP Phương Đông (OCB), cùng với sản phẩm FE Credit. Các sản phẩm này không chỉ giúp mở rộng kênh tín dụng mà còn mang đến sự tiện lợi và nhanh chóng cho khách hàng trong quá trình tiếp cận vốn.
Năm 2024, Việt Nam ghi dấu sự ra đời và phát triển nhanh chóng của những ngân hàng số thế hệ mới. Điển hình như Ngân hàng số Vikki (từ HDBank), ra mắt thị trường từ tháng 7/2024 và nhanh chóng nhập cuộc xu thế trên với tiện ích thanh toán xuyên biên giới bằng QR, tiện ích mua bán ngoại tệ, cùng nhiều giải pháp tài chính sáng tạo, tiên tiến và dễ tiếp cận cho cộng đồng. Vikki cũng đưa dịch vụ tài chính số đến vùng sâu, vùng xa, qua chương trình hỗ trợ người dân các xã các tỉnh phía Bắc bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 (bão Yagi) trong năm 2024, theo chiến lược tài chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những ngân hàng số thế hệ mới đầu tiên tích hợp tiện ích thanh toán “một chạm” trong giao thông thông minh trên toàn tuyến metro đầu tiên của TP. Hồ Chí Minh ngay khi đi vào vận hành từ ngày 22/12/2024.
Theo Vụ Thanh toán (NHNN), hiện nay tỷ lệ giao dịch qua kênh số của nhiều tổ chức tín dụng đã vượt mốc 90%. Chỉ tính riêng trong năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 56,68% về số lượng và 32,79% về giá trị; qua kênh Internet tăng 49,73% về số lượng và 33,12% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 54,08% về số lượng và 34,03% về giá trị; giao dịch qua QR Code tăng 104,65% về số lượng và 97,14% về giá trị. Giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đến tháng 3/2025 đạt hơn 5,2 tỷ giao dịch với giá trị đạt hơn 80 triệu tỷ đồng, tăng 44,43% về số lượng và tăng 24,34% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024 (Quang Hà, 2025).
Một số khó khăn, thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động ứng dụng số của các ngân hàng Việt Nam cũng đang gặp một số khó khăn, thách thức, cụ thể là:
Một là, về nguồn lực cho hoạt động ứng dụng số. Việc triển khai các giải pháp công nghệ tiên tiến như Blockchain, AI, Big Data và điện toán đám mây đòi hỏi các khoản đầu tư ban đầu rất lớn. Đây là một thử thách lớn, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ hoặc có vốn điều lệ hạn chế.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực phục vụ đổi mới sáng tạo cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Số lượng chuyên gia có kỹ năng về công nghệ, phân tích dữ liệu và quản lý đổi mới sáng tạo còn ít. Hơn nữa, tình trạng “chảy máu chất xám” khi nhân sự chất lượng cao chuyển sang làm việc tại các tập đoàn tài chính quốc tế hoặc các công ty Fintech lớn càng làm gia tăng khoảng cách về năng lực đổi mới sáng tạo giữa các ngân hàng Việt Nam với khu vực.
Hai là, về hạ tầng công nghệ. Mặc dù ngành ngân hàng Việt Nam đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin, nhưng cơ sở hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán vẫn còn một số bất cập. Một số ngân hàng chưa thực sự mạnh dạn triển khai các giải pháp thanh toán mới như: thanh toán không tiếp xúc, thanh toán qua mã QR hay ví điện tử, khiến khả năng cạnh tranh bị hạn chế so với các công ty Fintech năng động.
Ba là, về thể chế. Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm thúc đẩy hoạt động ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng, tuy nhiên chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và hỗ trợ tài chính cho hoạt động này còn hạn chế. Bên cạnh đó, khung pháp lý về ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ là rào cản trong quá trình ứng dụng công nghệ số của các ngân hàng.
KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Về phía Nhà nước
Nhà nước cần xây dựng và ban hành thêm nhiều chính sách nhằm khuyến khích và thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số nói chung, ứng dụng công nghệ số nói riêng trong lĩnh vực ngân hàng. Cụ thể, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho các dịch vụ ngân hàng số, thanh toán điện tử và Fintech, bao gồm việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo mật dữ liệu, xác thực điện tử và giao dịch không dùng tiền mặt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng triển khai các giải pháp công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể áp dụng các chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo của các ngân hàng. Đồng thời, cần có các gói hỗ trợ tài chính như quỹ bảo lãnh tín dụng hoặc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp để khuyến khích các ngân hàng mạnh dạn đầu tư vào các dự án công nghệ cao.
Cuối cùng, ngân sách nhà nước cần ưu tiên tài trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D), các giải pháp công nghệ cao như AI, Big Data và Blockchain. Đặc biệt, cần có các chương trình tài trợ nghiên cứu dành riêng cho các lĩnh vực mà ngân hàng Việt Nam đang gặp khó khăn như quản trị rủi ro, bảo mật dữ liệu và thanh toán không dùng tiền mặt.
Về phía các ngân hàng thương mại
Thứ nhất, các ngân hàng cần tập trung đầu tư mạnh mẽ vào nguồn lực về con người và tài chính. Về nguồn nhân lực, việc tuyển dụng và đào tạo các chuyên gia công nghệ, dữ liệu và quản lý có năng lực chuyên môn về AI, Big Data và Blockchain là cần thiết. Về tài chính, các ngân hàng nên thành lập quỹ đổi mới sáng tạo nhằm hỗ trợ các dự án nghiên cứu và triển khai công nghệ tiên tiến. Đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật hiện đại như điện toán đám mây, bảo mật dữ liệu và hệ thống phân tích thông minh sẽ giúp tối ưu hóa chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Thứ hai, tăng cường hợp tác với các công ty Fintech không chỉ giúp đa dạng hóa dịch vụ mà còn tối ưu hóa quy trình vận hành thông qua việc tích hợp các giải pháp thanh toán hiện đại. Các ngân hàng cũng nên đẩy mạnh liên kết với các viện nghiên cứu và trường đại học bằng cách tài trợ và phối hợp thực hiện các đề tài nghiên cứu về AI, bảo mật và phân tích dữ liệu.
Tài liệu tham khảo
1. BIDV (2024). Tối ưu tiện ích cho khách hàng từ BIDV Open API. https://bidv.com.vn/bidv/tin-tuc/tin-ve-bidv/toi-uu-tien-ich-cho-khach-hang-tu-bidv-open-api.
2. Nguyễn Anh Tuấn (2025). Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. https://tapchinganhang.gov.vn/nang-cao-nang-luc-doi-moi-sang-tao-tai-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-15885.html.
3. Phạm Xuân Hòe (2021), Số hóa ngân hàng - Nhiều đột phá cho ngành dịch vụ tài chính Việt Nam. Hội thảo khoa học “Phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp trên nền tảng công nghệ số” của Trường Đại học Tài chính - Marketing, trang 2-13.
4. Quang Hà (2025). Ngành ngân hàng số hóa mạnh, 90% giao dịch qua kênh số. https://vtv.vn/kinh-te/nganh-ngan-hang-so-hoa-manh-90-giao-dich-qua-kenh-so-20250526111207985.htm.
Ngày nhận bài: 23/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/10/2025; Ngày duyệt đăng: 22/10/2025 |
Bình luận