Vốn đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong bối cảnh mới
TS. Trần Thị Tuyết Lan
Viện Kinh tế - Xã hội và Môi trường,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Email: tuyetlannpa@gmail.com
Tóm tắt
Vốn đầu tư là nguồn lực quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Là một nước đang phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của Việt Nam rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đưa ra định hướng chiến lược, đó là từ Đại hội XIV trở đi đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bài viết dưới đây sẽ đánh giá thực trạng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2011-2024 và đề xuất phương hướng nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2025-2030.
Từ khóa: Vốn đầu tư, tăng trưởng, chiến lược, Việt Nam
Summary
Investment capital is a crucial resource that drives economic growth and development in Viet Nam. As a developing country, Viet Nam has a substantial demand for investment capital to support its economic development, especially in the context of the nation’s new strategic direction, starting from the 14th National Party Congress, which envisions leading the nation into a new era of development, an era of national rise. The article assesses the current situation of investment capital in Viet Nam during the period 2011-2024 and proposes solutions to enhance the effective mobilization and utilization of investment capital in the period 2025-2030.
Keywords: Investment capital, growth, strategy, Viet Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong giai đoạn vừa qua, vốn đầu tư ở Việt Nam không ngừng gia tăng về quy mô, cơ cấu vốn đầu tư dịch chuyển theo hướng tích cực và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã từng bước được cải thiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, quy mô vốn đầu tư tăng, song chưa huy động được tối đa các nguồn vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã được cải thiện, song vẫn còn thấp trong khi quy mô vốn đầu tư cao. Bối cảnh mới trong nước và quốc tế với những thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra yêu cầu đối với Việt Nam cần có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2024
Kết quả đạt được
Quy mô vốn đầu tư ngày càng tăng
Trong giai đoạn 2011-2024, Việt Nam đã huy động được một lượng vốn đầu tư khá lớn, quy mô vốn đầu tư ngày càng tăng. Trong đó, giai đoạn 2011-2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 5.610,0 nghìn tỷ đồng, với tỷ lệ vốn đầu tư/GDP là 31,7%; giai đoạn 2016-2020 đạt 9.430,0 nghìn tỷ đồng, với tỷ lệ vốn đầu tư/GDP là 33,7% và đảm bảo theo đúng kế hoạch đã đề ra khoảng 32-34%. Năm 2024, tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 32,1% GDP (Bảng 1).
Bảng 1: Quy mô vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành giai đoạn 2011-2024
|
Giai đoạn/năm |
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội (nghìn tỷ đồng) |
Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP (%) |
|
2011-2015 |
5.610,0 |
31,7 |
|
2016-2020 |
9.430,0 |
33,7 |
|
2021 |
2.891,9 |
34,1 |
|
2022 |
3.219,8 |
33,8 |
|
2023 |
3.423,5 |
33,5 |
|
2024 |
3.692,1 |
32,1 |
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Tổng cục Thống kê (2021, 2022, 2023, 2024)
Cơ cấu vốn đầu tư theo khu vực kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực
Cơ cấu vốn đầu tư theo khu vực kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011-2024 có xu hướng dịch chuyển tích cực theo hướng tăng tỷ trọng vốn khu vực ngoài nhà nước, giảm tỷ trọng vốn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực nhà nước. Tính chung cho cả giai đoạn, vốn đầu tư của khu vực nhà nước giảm từ 38,0% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 31,8% giai đoạn 2016-2020 và 27,6% năm 2024; vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng từ 38,7% giai đoạn 2011-2015 lên 46,0% giai đoạn 2016-2020 và 55,9% năm 2024; vốn đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm từ 23,3% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 22,2% giai đoạn 2016-2020 và 16,5% năm 2024 (Bảng 2). Sự dịch chuyển này phù hợp với định hướng cơ cấu lại vốn đầu tư công và giảm dần sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, nhất là các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Sự dịch chuyển này cho thấy Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực.
Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư theo khu vực kinh tế giai đoạn 2011-2024
(ĐVT: %)
|
Giai đoạn/năm |
Khu vực nhà nước |
Khu vực ngoài nhà nước |
Khu vực có vốn ĐTNN |
|
2011-2015 |
38,0 |
38,7 |
23,3 |
|
2016-2020 |
31,8 |
46,0 |
22,2 |
|
2021 |
24,7 |
59,5 |
15,8 |
|
2022 |
25,6 |
58,2 |
16,2 |
|
2023 |
27,9 |
56,1 |
16,0 |
|
2024 |
27,6 |
55,9 |
16,5 |
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Tổng cục Thống kê (2021-2024)
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được cải thiện
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế được thể hiện qua hệ số ICOR (Incremental Capital - Output Ratio). Hệ số ICOR là một chỉ số cho biết để có thêm một đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong thời kỳ đó. Với ý nghĩa đó, nếu ICOR cao và ngày càng tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp và ngược lại ICOR thấp và ngày càng giảm chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tăng.
Giai đoạn 2011-2020, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Điều này được thể hiện qua hệ số ICOR của nền kinh tế đã giảm từ mức 6,96 giai đoạn 2006-2010, xuống 6,3 giai đoạn 2011-2015 và 6,1 giai đoạn 2016-2019 (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b). Hệ số ICOR của nền kinh tế nước ta giai đoạn 2015-2024 nằm trong khoảng 5,8-6,42, nghĩa là để tạo thêm được 1 đồng GDP, chúng ta phải bỏ ra khoảng 6 đồng vốn đầu tư (Nguyễn Bích Lâm, 2025). Theo số liệu trên đây, hệ số ICOR của Việt Nam vẫn còn tương đối cao. Điều này có thể được giải thích là do Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, do đó, nhu cầu sử dụng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất lớn. Trong khi đó, đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng lại là lĩnh vực đầu tư có độ trễ nhất định, chậm tác động ngay tới tăng trưởng kinh tế.
Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc huy động và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2024 còn có những hạn chế sau đây:
Quy mô vốn đầu tư ngày càng tăng, song chưa huy động được tối đa các nguồn vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
Trong những năm qua, vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng đáng kể, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 nguồn vốn đầu tư toàn xã hội kể từ năm 2017. Đây là một xu hướng dịch chuyển tích cực. Tuy nhiên, một số hạn chế trong huy động vốn thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài nhà nước còn khiêm tốn, với hơn 97% doanh nghiệp tư nhân hiện nay (Nguyễn Như Quỳnh, 2025) có quy mô nhỏ và siêu nhỏ với trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị doanh nghiệp yếu và rất dễ bị phá sản, giải thể. Số liệu này cho thấy Việt Nam hiện đang rất thiếu các doanh nghiệp tư nhân lớn và các doanh nghiệp tư nhân cỡ vừa. Các doanh nghiệp tư nhân còn rất thiếu các nguồn lực phát triển như nguồn lực vốn, đất đai, thông tin. Cơ hội tiếp cận với các nguồn lực cũng hạn chế hơn so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chỉ có 30% doanh nghiệp tư nhân tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng một cách thuận lợi (Nguyễn Như Quỳnh, 2025); đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân nhỏ và siêu nhỏ vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận tín dụng do khó đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về điều kiện vay vốn. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, theo số liệu báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ có khoảng 6% doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu (Nguyễn Như Quỳnh, 2025). Ngoài ra, sự liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI còn yếu, chỉ có 6,9% doanh nghiệp tư nhân có liên kết với doanh nghiệp FDI, 15% liên kết với doanh nghiệp nhà nước (Học viện Chính sách và Phát triển, 2023).
Thứ hai, nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động một cách có hiệu quả. Lượng kiều hối gửi về Việt Nam trong những năm gần đây là khá lớn, có thể coi là nguồn vốn lớn bổ sung vào đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Năm 2022, Việt Nam đã nhận 19 tỷ USD kiều hối, cao hơn 1 tỷ USD so với năm 2021. Đến năm 2024, lượng kiều hối về Việt Nam đạt gần 16 tỷ USD. Đây là một trong những nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam cùng với vốn FDI và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). So với nguồn vốn ODA, nguồn kiều hối có giá trị lớn hơn, có tính ổn định cao hơn và bền vững hơn. Tuy nhiên, việc huy động nguồn kiều hối vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm cho nền kinh tế và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn hạn chế.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã được cải thiện, song vẫn còn thấp trong khi quy mô vốn đầu tư cao
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế được thể hiện ở hệ số ICOR mặc dù có giảm xuống, song vẫn còn cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vẫn còn thấp. Đi sâu vào từng nguồn vốn đầu tư cụ thể, hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện như sau:
Thứ nhất, vốn FDI tăng về số lượng, song chất lượng của dòng vốn này còn hạn chế, chưa đáp ứng kỳ vọng của nền kinh tế. Sau gần 40 năm thực hiện thu hút vốn FDI, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn chưa phát triển, thiếu sự kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài; thu hút FDI mới, công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI còn gặp nhiều khó khăn. Sự lệ thuộc của nền kinh tế vào dòng vốn FDI được thể hiện khá rõ nét, khi xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước giảm từ 70,6% năm 2015 xuống còn 68,8% năm 2019, tuy nhiên, đến năm 2020 tăng lên 72,3% (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b); năm 2021 là 73,4% và đến năm 2024 giảm xuống còn 71,7%. Kim ngạch nhập khẩu chiếm 65,6% (năm 2021) và chiếm 63,2% (năm 2024) (Tổng cục Thống kê, 2021-2024). Đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách nhà nước chưa thực sự tương xứng với quy mô vốn đầu tư và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Theo số liệu báo cáo của Bộ Tài chính, doanh thu của khu vực FDI năm 2021 tăng 19% so với năm 2020, lợi nhuận sau thuế tăng đến 29,6% nhưng số nộp ngân sách nhà nước chỉ tăng 9,3%. Như vậy, tốc độ tăng số tiền nộp ngân sách nhà nước chậm hơn so với tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp FDI (Học viện Chính sách và Phát triển, 2023).
Thứ hai, đối với vốn ngân sách, thu ngân sách nhà nước còn yếu tố chưa bền vững, còn dựa vào các khoản thu từ tiền sử dụng đất đai và dầu thô. Cụ thể là, so với dự toán, thu từ dầu thô năm 2021 vượt 21.400 tỷ đồng, năm 2022 vượt 49.800 tỷ đồng; thu tiền sử dụng đất năm 2021 và năm 2022 đều vượt khoảng 74.000 tỷ đồng (Quốc hội, 2023), chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2025, khoản thu từ đất đạt 243.644 tỷ đồng - tương đương 96% dự toán cả năm và tăng hơn 2,6 lần so với cùng kỳ năm 2024 (Tư Giang, 2025). Chính sách thu ngân sách nhà nước chưa bao quát hết các nguồn thu, đặc biệt là thu từ hoạt động thương mại, bán hàng qua mạng; quản lý tài nguyên, môi trường,... dẫn tới thất thu ngân sách nhà nước. Công tác quản lý thu chưa theo kịp tình hình thực tế dẫn tới thất thu ngân sách nhà nước do gian lận, chuyển giá, nợ đọng thuế, đặc biệt là thu từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Chi thường xuyên ngân sách nhà nước mặc dù có giảm, song vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b).
Thứ ba, vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng giảm đáng kể. Trong giai đoạn 2016-2020, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài huy động được thấp hơn so với giai đoạn 2011-2015. Cụ thể, vốn ký kết giai đoạn 2016-2020 là 12,99 tỷ USD, giảm 51% so với giai đoạn 2011-2015. Tổng vốn giải ngân trong giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 13,6 tỷ USD, giảm khoảng 41% so với giai đoạn 2011-2015 (bình quân mỗi năm giảm 16%), trong đó giải ngân vốn nước ngoài cấp phát từ ngân sách trung ương trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn của giai đoạn này bằng 64,8% Kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (Lan Hương, 2022). Tỷ lệ giải ngân thấp và chậm là một hạn chế lớn và cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả thu hút và hạn chế dòng ODA vào Việt Nam. Sự sụt giảm trong việc huy động và giải ngân vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thời gian qua chủ yếu là do sau khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình, các nhà tài trợ có sự điều chỉnh chính sách cung cấp vốn, đặc biệt là vốn vay ODA và viện trợ không hoàn lại.
Thứ tư, đối với vốn đầu tư công, cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công chưa đáp ứng yêu cầu. Giai đoạn 2016-2020, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ở các dự án, các công trình giao thông đường bộ còn chậm so với kế hoạch, đặc biệt là các dự án đường sắt đô thị. Vốn đầu tư công còn dàn trải, chưa tập trung vào các nhiệm vụ cốt lõi như đầu tư xây dựng sân bay Long Thành, đường cao tốc Bắc Nam, đường sắt tốc độ cao,... (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b). Trong năm 2022, tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước so với kế hoạch còn thấp (chiếm 85,2%), trong đó vốn Trung ương đạt còn thấp hơn (chiếm 78,9%). Tỷ lệ giải ngân ở một số bộ, ngành và địa phương còn rất thấp: Y tế (52,3%), Giáo dục - Đào tạo (61,1%), Khoa học và Công nghệ (70,7%), Văn hóa, Thể thao và Du lịch (66,9%), Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (73,7%); một số địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp như TP. Hồ Chí Minh (67,3%), Vĩnh Phúc (82,5%),....
BỐI CẢNH MỚI VÀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2025-2030
Bối cảnh mới có ảnh hưởng đến huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư ở Việt Nam
Những thuận lợi
Một là, với khát vọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực thực hiện các đột phá chiến lược, tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, chính sách thông qua việc ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Ban Chấp hành Trung ương, 2024), Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới (Ban Chấp hành Trung ương, 2025a), Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đấ tnước trong kỷ nguyên mới (Ban Chấp hành Trung ương, 2025b), Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân (Ban Chấp hành Trung ương, 2025c). Các Nghị quyết mới được ban hành thể hiện sự đổi mới tư duy, sự thống nhất trong nhận thức và hành động nhằm tạo động lực mới thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030, tạo tiền đề đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu “đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a).
Hai là, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW (Ban chấp hành Trung ương, 2017) gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, góp phần giảm chi thường xuyên; xóa bỏ các cấp trung gian (cấp quận/huyện), thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp nhằm lược bớt những thủ tục hành chính rườm rà, hạn chế sự chồng chéo trong quản lý. Đồng thời, Chính phủ chủ trương phân cấp cho các địa phương chủ động nghiên cứu, rà soát, đánh giá các tiềm năng lợi thế, các nguồn lực, động lực tăng trưởng mới cho địa phương. Điều này sẽ ảnh hưởng tích cực tới môi trường đầu tư của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ba là, Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đạt được nhiều thành quả ấn tượng, trong đó tham gia các thỏa thuận hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế với 17 hiệp định thương mại tự do (FTA); là một trong 20 quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất thế giới từ năm 2019 cho đến nay (Ban Chấp hành Trung ương, 2025a). Với mục tiêu tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vai trò, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước, vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, mở ra một giai đoạn phát triển mới cho Việt Nam. Điều này sẽ tác động tích cực trong việc mở ra nhiều cơ hội thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khó khăn và thách thức
Bước vào giai đoạn 2025-2030, bối cảnh thế giới được dự báo có nhiều thay đổi với những diễn biến rất phức tạp, khó lường. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức; các cuộc xung đột thương mại trên thế giới; đầu tư quốc tế có xu hướng giảm, nợ công toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương trên thế giới sẽ là những yếu tố tác động đến việc điều chỉnh dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam như ODA, FDI. Thêm vào đó, việc Mỹ áp dụng thuế đối ứng thương mại đối hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia vào thị trường Mỹ, trong đó có Việt Nam, sẽ làm giảm dòng vốn FDI vào Việt Nam do các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ có thể phải cân nhắc lại kế hoạch đầu tư; đồng thời, các nhà đầu tư nước ngoài có thể dịch chuyển dòng vốn FDI sang các nước khác có mức thuế thấp hơn hoặc không bị Mỹ áp thuế để duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu Mỹ.
Ở trong nước, trong giai đoạn 2025-2030, để tránh nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, nguy cơ “tụt hậu xa hơn”, Việt Nam sẽ tập trung mọi nguồn lực để thực hiện các mục tiêu như phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19; thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với cơ cấu lại nền kinh tế; đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng theo hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển nhanh và bền vững dựa trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển công nghệ số, kinh tế số; phát triển cơ sở hạ tầng có tính kết nối cao; cải cách công tác quản lý nhà nước; cải cách dịch vụ công;... Do đó, nhu cầu về vốn đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là rất lớn. Trong khi năng suất lao động của nền kinh tế còn thấp, thì vốn đầu tư vẫn được coi là một nguồn lực quan trọng, là một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Khóa XII về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đang được Đảng và Nhà nước quyết liệt chỉ đạo, thực hiện quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp nhằm sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí nguồn ngân sách nhà nước. Do vậy, nhiều dự án xây dựng sử dụng vốn đầu tư công sẽ có nguy cơ tạm dừng triển khai, chậm tiến độ do tổ chức bộ máy chính quyền ở các tỉnh, địa phương đang trong giai đoạn sắp xếp lại.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải dối diện với rất nhiều thách thức với các vấn đề mới nảy sinh mang tính toàn cầu như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường. Tất cả những bối cảnh mới đó đòi hỏi trong những năm tới Việt Nam phải huy động được một lượng vốn lớn để giải quyết. Do vậy, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, tạo nền tảng vững chắc để đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số giai đoạn 2026-2030 như Nghị quyết số 25/NQ-CP (Chính phủ, 2025) đã đề ra, Việt Nam cần phải tiếp tục tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư ở Việt Nam
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đảm bảo sự ổn đinh và nhất quán của chính sách, tạo môi trường đầu tư thuận lợi khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư kinh doanh. Khẩn trương nghiên cứu xây dựng “Cổng một cửa đầu tư quốc gia” để các nhà đầu tư, doanh nghiệp không phải đi lại nhiều, chạy vạy nhiều cửa - theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2025. Đổi mới nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư; đa dạng hóa các hoạt động và phương thức xúc tiến đầu tư; ưu tiên xúc tiến đầu tư tại chỗ nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các nhà đầu tư; kịp thời nắm bắt những xu thế của thế giới để đưa ra chính sách phù hợp, đặc biệt là chính sách ưu đãi hỗ trợ nhà đầu tư. Làm tốt công tác quy hoạch, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hạ tầng logistics để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Phát triển thị trường chứng khoán thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Phát triển thị trường vốn trong nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu cho chi đầu tư phát triển.
Đa dạng hóa, mở rộng các hình thức đầu tư để huy động nguồn vốn từ khu vực ngoài nhà nước. Phát triển mạnh mẽ mô hình Đối tác công - tư (PPP) nhằm thu hút vốn từ khu vực ngoài nhà nước tham gia vào các dự án hạ tầng có quy mô lớn. Có chính sách khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về đầu tư vào sản xuất, kinh doanh thay vì chỉ tập trung vào tiêu dùng và bất động sản nhằm khơi thông nguồn kiều hối.
Tạo lập sân chơi bình đẳng, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực phát triển, nhất là nguồn lực vốn, đất đai và nhân lực chất lượng cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tăng cường đổi mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại, chủ động ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững. Phát triển nhanh các doanh nghiệp lớn và vừa, hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và các hộ kinh doanh. Tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI (Ban chấp hành Trung ương, 2025c). Xây dựng các chính sách khuyến khích doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực và sử dụng các nhà cung cấp nội địa, từ đó giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Có chính sách ưu đãi (về thuế, đất đai, tín dụng,...) tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, du lịch chất lượng cao và kinh tế số.
Thu hút FDI theo hướng từ số lượng sang chú trọng chất lượng và nâng cao hiệu quả thu hút FDI. Tập trung ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao, công nghệ nguồn, năng lượng sạch, đổi mới sáng tạo; ưu tiên các nhà đầu tư chiến lược và có sự liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu; ưu tiên doanh nghiệp FDI cam kết chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam. Xây dựng và ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI để lựa chọn các nhà đầu tư phù hợp với qui hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn và đảm bảo tăng cường tính liên kết vùng nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Kiểm soát chặt chẽ những dự án đầu tư không phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước đủ năng lực về công nghệ. Có cơ chế, chính sách khuyến khích hợp tác chuyển giao công nghệ dựa trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện nhằm tăng cường tính kết nối, lan tỏa giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài; hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Thực hiện nghiêm Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Tăng cường kỷ luật tài khóa, quản lý thu chi ngân sách hiệu quả, chống thất thu thuế.
Huy động và sử dụng vốn ODA và các nguồn vốn vay ưu đãi cho các lĩnh vực then chốt như ứng phó biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển bền vững, y tế và giáo dục. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay phù hợp với tình hình thực tiễn. Cần có cơ chế, biện pháp thúc đẩy giải ngân vốn ODA đã cam kết.
Ưu tiên tập trung vốn đầu tư công cho các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, các dự án hạ tầng giao thông kết nối liên vùng như đường cao tốc Bắc - Nam, đường ven biển, hạ tầng năng lượng và hạ tầng số. Đẩy mạnh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt là đối với các dự án trọng điểm quốc gia và siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu tư công. Tăng cường đề cao vai trò, trách nhiệm của các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công hàng năm tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương (Thủ tướng Chính phủ, 2025) và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, các cơ quan trung ương và địa phương trong việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các dự án đầu tư nhằm khơi thông nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Công khai, minh bạch thông tin dự án đầu tư công và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chống tham nhũng, lãng phí. Xử lý nghiêm theo qui định đối với tổ chức, cá nhân cố tình chậm tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công hoặc có hành vi tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đầu tư công.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát đối với các dự án đầu tư công thông qua việc tăng cường vai trò của Quốc hội, HĐND các cấp. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường sự tham gia giám sát của người dân và các tổ chức xã hội đối với hoạt động đầu tư công nhằm tránh lãng phí, thất thoát, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư công. Kiểm soát và quản lý nợ công trong giới hạn cho phép; hoàn thiện luật pháp, chính sách quản lý nợ công phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và thông lệ quốc tế, gắn trách nhiệm phân bổ, sử dụng vốn vay với trách nhiệm giải trình, cân đối nghĩa vụ trả nợ.
KẾT LUẬN
Trước bối cảnh mới của đất nước, nguồn vốn đầu tư ở Việt Nam vẫn được coi là nguồn động lực quan trọng, có đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, Do đó, các nguồn vốn đầu tư cần phải được khơi thông và sử dụng một cách có hiệu quả. Những giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2025-2030 cần được thực hiện đồng bộ, với kế hoạch và lộ trình cụ thể để đạt được các mục tiêu tăng trưởng đã đề ra đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban chấp hành Trung ương (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/ 2017 về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Ban chấp hành Trung ương (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Ban chấp hành Trung ương (2025a). Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
4. Ban chấp hành Trung ương (2025b). Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/ 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đấ tnước trong kỷ nguyên mới.
5. Ban chấp hành Trung ương (2025c). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
6. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 5/2/2025 về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021a), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 1, tr.36.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 2.
9. Học viện Chính sách và Phát triển (2023). Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Thúc đẩy chuyển dịch xanh, bao trùm ở Việt Nam”. Nxb Xây dựng, 2023, tr.20-22.
10. Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (2023). Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2022-2023.
11. Lan Hương (2022). Giám sát thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: Nhiều địa phương không mặn mà với vốn vay ODA. https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-giam-sat.aspx?ItemID=67867#
12. Ngọc Ánh (2024). Khoảng 16 tỷ USD kiều hối về Việt Nam trong năm 2024. https://vnexpress.net/khoang-16-ty-usd-kieu-hoi-ve-viet-nam-trong-nam-2024-4832487.html ngày 27/12/2024
13. Nguyễn Bích Lâm (2025). Kinh tế Việt Nam 2025: Khơi thông, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/kinh-te-viet-nam-2025-khoi-thong-su-dung-hieu-qua-cac-nguon-von-dau-tu-thuc-day-tang-truong-nhanh-ben-vung-11925042409390999.htm.
14. Nguyễn Như Quỳnh (2025). Kinh tế tư nhân - Động lực bứt phá vì một Việt Nam thịnh vượng, hùng cường. https://nief.mof.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/kinh-te-tu-nhan-dong-luc-but-pha-vi-mot-viet-nam-thinh-vuong-hung-cuong-11412.html.
15. Quốc hội (2023). Báo cáo tóm tắt thẩm tra đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025. Ủy ban Kinh tế. https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaxv/kyhopthu6/Pages/van-kien-tai-lieu.aspx?ItemID=5144
16. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 523/QĐ-TTg ngày 6/3/3025 về việc thành lập Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công hàng năm tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
17. Tổng cục Thống kê (2021-2024). Niên giám thống kê 2021, 2022, 2023, 2024.
18. Tư Giang (2025). Khi thu ngân sách ở nhiều tỉnh “no nê” từ đất. https://vietnamnet.vn/khi-thu-ngan-sach-o-nhieu-tinh-no-ne-tu-dat-2430839.html.
19. VTV (2023). Việt Nam trong top 10 nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới. https://vtv.vn/kinh-te/viet-nam-trong-top-10-nuoc-nhan-kieu-hoi-lon-nhat-the-gioi-20230206085322337.htm.
| Ngày nhận bài: 30/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 10/10/2025; Ngày duyệt đăng: 12/10/2025 |

Bình luận