TS. Nguyễn Thị Hương

Học viện Quản lý giáo dục

Email:nguyenhuonghvqlgd85@gmail.com

Tóm tắt

Kinh tế tuần hoàn được nhìn nhận là một hướng đi quan trọng, một trong những giải pháp đột phá để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế tuần hoàn là cả một lộ trình lâu dài đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực, không chỉ trong lĩnh vực môi trường mà trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để mô hình kinh tế này được áp dụng phổ biến, rộng rãi, đạt hiệu quả vừa là giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia, bảo vệ môi trường sống, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, vừa thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của Việt Nam đối với các vấn đề toàn cầu. Bài viết phân tích việc xây dựng kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Hàn Quốc, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm áp dụng khả thi ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững, tài nguyên thiên nhiên, kinh tế xanh, Hàn Quốc

Summary

The circular economy is a key pathway and one of the breakthrough solutions to harmonize economic development with environmental protection. The development of a circular economy is a long-term process that requires sustained efforts and commitment, not only within the environmental sector but also across various other fields. For this economic model to be widely and effectively implemented, it must serve as both a strategy to promote national economic growth, environmental conservation, and natural resource efficiency, and as a demonstration of Viet Nam’s responsibility and commitment to addressing global challenges. The article examines the development of South Korea’s national action plan for implementing a circular economy, thereby drawing out several lessons and practical implications for Viet Nam.

Keywords: Circular economy, sustainable development, natural resources, green economy, South Korea

ĐẶT VẤN ĐỀ

Việc thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 2023) cho thấy, trên thế giới, đến nay có khoảng hơn 30 quốc gia/vùng lãnh thổ đã, đang và sẽ xây dựng các quy định, lộ trình thực hiện KTTH với những tên gọi khác nhau như Kế hoạch hành động KTTH lần thứ hai của Liên minh châu Âu, Luật khuyến khích KTTH của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Luật cơ bản cho việc thành lập một xã hội dựa trên tái chế tại Nhật Bản, lộ trình thực hiện KTTH đến năm 2040 của Chile hay Lộ trình thực hiện KTTH đến năm 2025 tại Pháp (Linh Lê, 2023).

Đặc biệt, năm 2021, Ủy ban ASEAN ban hành Khung KTTH cho Cộng đồng kinh tế ASEAN. Khung kinh tế này đặt ra tầm nhìn dài hạn với các tham vọng về KTTH dựa trên những sáng kiến hiện có và xác định các trọng tâm hành động ưu tiên nhằm đẩy nhanh tiến trình hiện thực hóa nền KTTH trong khối ASEAN. Từ kinh nghiệm ban hành kế hoạch hành động khung cho nền KTTH ở các quốc gia cho thấy: (1) Muốn thành công trong KTTH thì cần có một hệ thống khung pháp luật hoàn thiện; (2) Trong kế hoạch hành động cần có những trọng tâm ưu tiên đối với một số ngành và lĩnh vực; vai trò của doanh nghiệp (DN) là vô cùng quan trọng trong việc thiết kế các mô hình KTTH.

KINH TẾ TUẦN HOÀN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

Khái niệm về kinh tế tuần hoàn

Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) cho rằng: “KTTH là một cách mới để tạo ra giá trị, và hướng tới mục tiêu cao nhất là sự thịnh vượng. Nó hoạt động bằng cách kéo dài vòng đời sản phẩm thông qua việc cải tiến thiết kế và bảo dưỡng, chuyển chất thải từ điểm cuối chuỗi cung ứng trở lại điểm đầu, qua đó, sử dụng các tài nguyên hiệu quả hơn bằng cách sử dụng nhiều lần chứ không chỉ một lần” (Nguyễn Đình Chúc và Trần Thị Thu Hương, 2022). Theo Liên minh châu Âu, KTTH là duy trì giá trị của sản phẩm, vật liệu lâu nhất có thể trong nền kinh tế và hạn chế chất thải, thông qua việc áp dụng hệ thống phân cấp chất thải được nêu trong Điều 4 của Chỉ thị 2008/98/EC của Nghị viện châu Âu và của Hội đồng (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2023). Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa: “KTTH đề cập đến một nền kinh tế nơi giá trị của sản phẩm, nguyên vật liệu và tài nguyên được duy trì trong nền kinh tế lâu nhất có thể và đồng thời giảm tối thiểu chất thải” (IRP, 2020). Cả UNEP và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đều cho rằng KTTH là cách tốt nhất để phá vỡ mối liên hệ đã có giữa tăng trưởng kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường.

Tổng kết các khái niệm KTTH hiện đại, Geissdoerfer và cộng sự (2017) đã đưa ra một cách nhìn cụ thể về KTTH, đó là “một hệ thống mà trong đó tài nguyên đầu vào và chất thải, phát thải, hao hụt năng lượng được giảm thiểu thông qua việc làm chậm, làm hẹp và khép kín các vòng vận động của vật liệu và năng lượng. Điều này có thể đạt được thông qua các thiết kế có tính dài hạn, bảo dưỡng, sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, làm mới và tái chế”.

Có thể thấy, quan điểm chung cho rằng KTTH là cách tiếp cận thay thế cho cách tiếp cận phát triển kinh tế tuyến tính (Linear economy) trước đây, tức là từ Khai thác tài nguyên (Take/Raw materials) đến Sản xuất (Make/Production), Sử dụng (Use) và cuối cùng là Chất thải (Dispose/Non-recyclable waste). KTTH có thể kết nối điểm cuối của đường thẳng đó trở lại với điểm đầu, giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng. Theo đó, có thể thấy, định nghĩa của UNEP có tính phổ quát và cập nhật nhất trong các định nghĩa về KTTH nêu trên. Định nghĩa mà Liên minh châu Âu đang sử dụng cũng có quan điểm tương đồng với UNEP.

Trên cơ sở các định nghĩa của các tổ chức quốc tế có uy tín, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã kế thừa và định nghĩa như sau: “KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường” (khoản 1 Điều 142).

Các đặc trưng của kinh tế tuần hoàn

Thứ nhất, các biện pháp thực hiện KTTH rất đa dạng thông qua nhiều hình thức khác nhau như từ chối sử dụng các sản phẩm gây hại cho môi trường, áp dụng các biện pháp sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, tái chế, cộng sinh công nghiệp để đạt được mục tiêu giảm tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế tối đa lượng chất thải thải ra môi trường.

Các biện pháp theo thứ tự ưu tiên để thực hiện KTTH, bao gồm: Hạn chế sử dụng những sản phẩm không thân thiện môi trường; tối ưu hóa sử dụng thiết bị, sản phẩm; tăng hiệu quả sản xuất, sử dụng hiệu quả tài nguyên, nguyên liệu, vật liệu; kéo dài vòng đời sản phẩm và các linh kiện, cấu kiện của sản phẩm, bao gồm: tái sử dụng (là việc sản phẩm được người tiêu dùng khác tái sử dụng); tu sửa (là việc sửa chữa hoặc bảo trì các sản phẩm bị lỗi để kéo dài thời gian sử dụng); tân trang (là việc phục hồi và nâng cấp sản phẩm cũ); tái sản xuất (là việc sử dụng các thành phần, linh kiện, cấu kiện của các sản phẩm thải bỏ vào các chức năng tương tự); thay đổi mục đích sử dụng (là việc sử dụng các sản phẩm hoặc các linh kiện, cấu kiện của sản phẩm thải bỏ cho sản phẩm mới có chức năng khác); giảm chất thải phát sinh bao gồm: tái chế chất thải (là việc xử lý, chế biến chất thải để chuyển hóa thành nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu có ích); thu hồi năng lượng thông qua thiêu đốt chất thải (Chính phủ, 2022).

Thứ hai, KTTH là mô hình kinh tế có thể xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau như cấp độ vĩ mô (một quốc gia, một vùng); cấp độ trung gian (meso) theo không gian của một khu đô thị để hình thành ra khu đô thị tuần hoàn; cấp độ vi mô theo từng DN, cơ sở kinh doanh cụ thể hoặc cấp độ từng sản phẩm (nano). Ở cấp độ vĩ mô, KTTH nên được xem là một cách tiếp cận để mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc DN khi thiết kế các mô hình cụ thể cần lồng ghép các mục tiêu, biện pháp của KTTH vào ngay trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chương trình phát triển, hoàn thiện các công cụ chính sách để thúc đẩy thực hiện KTTH. Ở cấp độ vi mô, các DN chủ động sáng tạo vận dụng KTTH vào quá trình xây dựng dự án kinh doanh, thiết kế từng sản phẩm của mỗi DN để hình thành các mô hình kinh doanh tuần hoàn, đây là những mô hình áp dụng trong sản xuất, kinh doanh được thể hiện thông qua những cách thức khác nhau để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.

Có 3 cách tiếp cận chính về kinh doanh tuần hoàn, đó là: (i) Đóng các vòng lặp tài nguyên (close the loops) nhằm tạo ra một dòng chảy tuần hoàn thông qua việc tái chế tài nguyên; (ii) Làm chậm vòng lặp tài nguyên (slow the loops) thông qua kéo dài thời gian sử dụng của sản phẩm để làm chậm dòng tài nguyên tổng thể; (iii) Thu hẹp các luồng tài nguyên (narrow the loops) nhằm hướng đến sử dụng ít tài nguyên hơn cho mỗi sản phẩm. Những cách tiếp cận này khả năng thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang một nền KTTH và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, đồng thời làm giảm đáng kể áp lực môi trường do hoạt động kinh tế gây ra.

Thứ ba, theo OECD, việc thúc đẩy thực hiện KTTH ở phạm vi quốc gia, khu vực, toàn cầu sẽ tạo điều kiện để hình thành và phát triển thị trường đối với sản phẩm, hàng hóa có liên quan tới KTTH; góp phần tạo ra những chuỗi giá trị gia tăng mới cho các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ có liên quan. Một số loại hàng hóa, dịch vụ sẽ có cơ hội xuất hiện bao gồm: vật liệu và chất thải để tái chế và thu hồi năng lượng, nguyên liệu thứ cấp, hàng cũ, hàng hóa thương mại để tân trang và tái sản xuất, dịch vụ thiết kế, tư vấn, đánh giá, các hàng hóa liên quan đến thương mại (như công nghệ, thiết bị, sản phẩm...) và các dịch vụ (dịch vụ thiết kế sinh thái, dịch vụ đào tạo, dịch vụ truyền thông, dịch vụ tư vấn, dịch vụ xác minh...).

Thứ tư, dựa trên 2 cách tiếp cận căn bản để hình thành chuỗi giá trị gia tăng trong thực hiện KTTH, bao gồm: thượng nguồn (upstream) - để thiết kế sản xuất và sản phẩm theo nguyên tắc của KTTH; hoặc hạ nguồn (downstream) - các quốc gia thường lựa chọn các công cụ chính sách để điều chỉnh hành vi của người sản xuất, tiêu dùng nhằm hướng đến hình thành và phát triển các chuỗi giá trị đó.

Thứ năm, thực hiện KTTH là một tiến trình chuyển dịch từ các mô hình tuyến tính sang các mô hình tuần hoàn gắn với đặc trưng riêng của từng quốc gia, vùng miền, loại hình, quy mô và đặc trưng trong sản xuất, kinh doanh của từng DN. Do đó, việc thực hiện và đo lường KTTH rất đa dạng, khó có thể xác định các ngưỡng hay đích đến chung cho tất cả các cấp độ.

Thứ sáu, KTTH đòi hỏi phải có tư duy hệ thống để thiết kế hoạt động phát triển kinh tế nhằm mang lại các lợi ích cho DN, xã hội và môi trường, thúc đẩy các tác nhân đổi mới, sáng tạo. Thực hiện KTTH cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan từ khu vực nhà nước ở trung ương và địa phương, DN khai thác khoáng sản và nguyên liệu thô, các nhà chế biến, sản xuất, phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, người thu gom rác... Mỗi chủ thể đó đóng vai trò là tác nhân với các nỗ lực khác nhau để tạo ra một hoặc nhiều vòng lặp tuần hoàn. Tuy nhiên, do đóng vai trò quan trọng, nên khu vực công cần phát huy vai trò kiến tạo và thúc đẩy hệ sinh thái tuần hoàn, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong áp dụng các biện pháp, phát triển các mô hình KTTH, kết nối các vòng lặp tuần hoàn một cách hệ thống và có chiến lược ngay từ khi thiết kế các định hướng phát triển.

Thứ bảy, thực hiện KTTH cần tôn trọng những nguyên tắc, quy luật của KTTT trong việc thể chế hóa các quy định để thúc đẩy thực hiện KTTH. Do đó, hệ thống quy định pháp luật, cơ chế, chính sách hướng đến phải tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành, phát triển các yếu tố thị trường, các dạng thị trường và hoạt động của các chủ thể thị trường; điều tiết hành vi của các chủ thể, qua đó, điều tiết hoạt động của nền kinh tế và can thiệp giải quyết những khiếm khuyết của thị trường... trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc, quy luật như giá trị, cạnh tranh, cung cầu của KTTT để DN, giá cả và sản xuất được vận hành một cách tự nhiên theo quy luật cung - cầu của hàng hóa và dịch vụ hơn là sự can thiệp của nhà nước.

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN KINH TẾ TUẦN HOÀN TỪ HÀN QUỐC

Chính phủ Hàn Quốc có một số chính sách nhằm thúc đẩy nền KTTH. Những chính sách này được thiết kế để giảm lãng phí, thúc đẩy hiệu quả sử dụng tài nguyên và tạo ra một nền kinh tế bền vững hơn.

Một trong những chính sách quan trọng nhất là Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh (2009-2050). Chiến lược này đề ra tầm nhìn dài hạn để Hàn Quốc trở thành một nền kinh tế xanh. Chiến lược bao gồm một số mục tiêu liên quan đến nền KTTH, chẳng hạn: Tăng tỷ lệ tái chế chất thải đô thị lên 65% vào năm 2030 và giảm 30% việc sử dụng vật liệu thô vào năm 2030.

Một chính sách quan trọng khác là Kế hoạch xúc tiến chuyển đổi chính sách lưu thông tài nguyên (2020). Kế hoạch này đã đề ra một số biện pháp bao gồm đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), cung cấp hỗ trợ cho các DN áp dụng thực hành tuần hoàn và nỗ lực nâng cao nhận thức về lợi ích của KTTH.

Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc cũng đang làm việc với các DN, học viện và các bên liên quan khác để phát triển, triển khai nền KTTH, bao gồm tài trợ cho R&D, hỗ trợ các DN áp dụng thực hành tuần hoàn và nỗ lực nâng cao nhận thức về lợi ích của KTTH.

Ngoài ra, một số chính sách KTTH ở Hàn Quốc đang được thực hiện, gồm: (i) Hệ thống trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) yêu cầu các nhà sản xuất chịu trách nhiệm thu gom và tái chế các sản phẩm của họ sau khi chúng không còn được sử dụng. Hệ thống này đã được áp dụng cho một số sản phẩm ở Hàn Quốc, chẳng hạn như lốp xe, pin và đồ điện tử; (ii) Hệ thống dán nhãn xanh cung cấp chứng nhận cho các sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường nhất định. Hệ thống này được thiết kế để giúp người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm tốt hơn cho môi trường; (iii) Chương trình hỗ trợ đổi mới sinh thái hỗ trợ tài chính cho các DN phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, giúp giảm thiểu chất thải và thúc đẩy hiệu quả sử dụng tài nguyên.

Từ những chính sách trên, Hàn Quốc đang tập trung vào các lĩnh vực sau:

(1) Sản xuất: Hàn Quốc là một trung tâm sản xuất lớn và Chính phủ nước này đang nỗ lực để làm cho lĩnh vực sản xuất tuần hoàn hơn. Điều này bao gồm các sáng kiến nhằm giảm thiểu chất thải, thúc đẩy hiệu quả sử dụng tài nguyên và phát triển các công nghệ mới hỗ trợ nền KTTH;

(2) Xây dựng: đây cũng là lĩnh vực làm phát sinh nguồn chất thải lớn ở Hàn Quốc. Để làm cho lĩnh vực xây dựng trở nên tuần hoàn hơn, Hàn Quốc đã thực hiện việc thúc đẩy sử dụng vật liệu tái chế, các tòa nhà tiết kiệm năng lượng và các hoạt động bền vững khác;

(3) Quản lý chất thải: Hàn Quốc cũng đang nỗ lực cải thiện hệ thống quản lý chất thải, như: các sáng kiến để giảm chất thải, tăng cường tái chế và thúc đẩy quá trình ủ phân;

(4) Giải quyết lãng phí thực phẩm: Đây là một vấn đề lớn ở Hàn Quốc. Chính phủ đang nỗ lực giảm lãng phí thực phẩm bằng cách thúc đẩy các sáng kiến như quyên góp thực phẩm dư thừa cho các ngân hàng thực phẩm và ủ phân rác thực phẩm;

(5) Giao thông vận tải: Để làm cho ngành giao thông tuần hoàn hơn, Hàn Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp thúc đẩy việc sử dụng phương tiện giao thông công cộng, xe điện và các phương thức vận chuyển bền vững khác;

(6) Công nghệ thông tin - truyền thông: Lĩnh vực này là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc. Chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy việc sử dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng và phát triển các công nghệ mới hỗ trợ nền KTTH (Bùi Quang Tuấn, Lại Văn Mạnh, Hà Huy Ngọc, 2024).

KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc xây dựng kế hoạch hành động thực hiện KTTH, Việt Nam cần cân nhắc đầy đủ các cơ hội, thách thức, rủi ro và rào cản. Có 2 cách tiếp cận chính sách để xây dựng KTTH hiện nay, đó là: (i) Tiếp cận theo khu vực KT; và (ii) Tiếp cận theo các nhóm ngành, sản phẩm, nguyên liệu hoặc vật liệu. Cả 2 cách tiếp cận này cần được nghiên cứu và đề xuất cho Việt Nam. Bên cạnh, đó, cần tính đến các cấp độ của KTTH bao gồm: Cấp độ vĩ mô để thực hiện, đo lường, đánh giá quá trình chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang KTTH; Cấp độ trung gian để thực hiện, đo lường, đánh giá quá trình chuyển đổi sang KTTH đối với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế, làng nghề, khu đô thị, khu dân cư tập trung; Cấp độ vi mô để thực hiện, đo lường, đánh giá quá trình chuyển đổi sang KTTH đối với các dự án đầu tư, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ; Cấp độ sản phẩm, dịch vụ để thực hiện, đo lường, đánh giá về mức độ thân thiện với môi trường đối với từng sản phẩm, dịch vụ. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ đã quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường xác định việc xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về thực hiện KTTH là phù hợp.

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó quy định cụ thể về những mục tiêu, nhiệm vụ phải thực hiện; các biện pháp khuyến khích và nâng cao trách nhiệm, tính hiệu quả trong phối hợp của các bên liên quan. Cần xem xét sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật khác như thuế bảo vệ môi trường, thuế giá trị gia tăng, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật về đầu tư công để thúc đẩy áp dụng KTTH vào thực tiễn. Cùng với đó, việc xây dựng lộ trình với các ưu tiên cụ thể và thành lập cơ quan điều phối liên ngành để lồng ghép các mục tiêu, giải pháp và chiến lược có liên quan của KTTH vào hệ thống tiêu chuẩn của các ngành, lĩnh vực.

Hai là, xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động chi tiết và lộ trình thực hiện cho quá trình chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang KTTH. Hành động cụ thể theo từng nhiệm vụ, từng ngành bao gồm các nội dung hành động của tiến trình thực hiện KTTH như: thiết kế sản phẩm, quy trình sản xuất, tiêu dùng sản phẩm, quản lý chất thải, quản lý nguyên liệu thứ cấp, các ngành ưu tiên, đổi mới đầu tư và các sáng kiến mới.

Ba là, DN đóng vai trò trung tâm trong thực hiện KTTH, cùng với việc tham gia các chương trình của Chính phủ, của tổ chức phi chính phủ hỗ trợ trong quá trình chuyển đổi cũng như sự tự nguyện đổi mới, sáng kiến bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Bốn là, chia sẻ kinh nghiệm thành công và kết nối mọi thành phần xã hội cùng tham gia: Cần những diễn đàn, website uy tín của Chính phủ, những chương trình tuyên dương chia sẻ kinh nghiệm của các tổ chức, DN thành công trong quá trình chuyển đổi sang KTTH để truyền cảm hứng và ý thức bảo vệ môi trường, kết nối thúc đẩy các thành phần xã hội tự nguyện tham gia thực hiện KTTH trong mọi hoạt động.

Năm là, xây dựng khung giám sát tiến trình chuyển đổi sang nền KTTH. Việc chuyển đổi này không giới hạn ở một số vật liệu hoặc lĩnh vực nhất định. Đó là một sự thay đổi hệ thống ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và liên quan đến tất cả các sản phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, các quốc gia thường bắt đầu thực hiện KTTH với một số ngành, lĩnh vực ưu tiên, để làm tiền đề mở rộng sau. Cùng với đó là xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về KTTH. Tất cả các khu vực và bộ phận cần tích cực hỗ trợ thiết lập hệ thống thông tin KTTH và hệ thống dịch vụ tư vấn kỹ thuật, công bố kịp thời thông tin về công nghệ, quản lý và chính sách kinh tế - xã hội; thực hiện tư vấn thông tin, chuyển giao công nghệ và đào tạo.

Đặc biệt, để KTTH từng bước đi vào cuộc sống, trong ngắn hạn, Việt Nam cần tập trung thực hiện hiệu quả các quy định của Luật Bảo vệ môi trường, ưu tiên xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia, bộ tiêu chí chung ở cấp quốc gia, tiêu chí đối với các ngành, lĩnh vực và đối với từng loại hình dự án đầu tư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và những chính sách đặc thù để khuyến khích thực hiện KTTH. Hình thành, vận hành cơ quan điều phối, xây dựng nền tảng kết nối thông tin, chia sẻ cơ chế, chính sách, bài học kinh nghiệm về áp dụng KTTH. Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức khoa học - công nghệ, hiệp hội nghề nghiệp tham gia vào tư vấn, đánh giá thực hiện.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023). Báo cáo thuyết minh phục vụ xây dựng kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn.

2. Bùi Quang Tuấn, Lại Văn Mạnh, Hà Huy Ngọc (2024). Xây dựng lộ trình phát triển nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam đến năm 2030, định hướng năm 2050, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.

3. Chính phủ (2022). Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.

4. Geissdoerfer, M., Savaget, P., Bocken, N. M., & Hultink, E. J. (2017). The Circular Economy-A new sustainability paradigm? Journal of Cleaner Production, 143/2017, pp.757-768.

5. IRP (2020). Resource Efficiency and Climate Change - Material Efficiency Strategies for a Low-Carbon Future: Summary for Policymakers, Nairobi, Kenya: United Nations Environment Programme.

6. Linh Lê (2023). Xây dựng kế hoạch hành động quốc gia và lĩnh vực trọng tâm trong thực hiện kinh tế tuần hoàn, Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương.

7. Nguyễn Đình Chúc, Trần Thị Thu Hương (2022). Một số thách thức trong phát triển nền kinh tế tuần hoàn và gợi mở một số định hướng thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, Tạp chí Môi trường xây dựng, http://moitruongxaydungvn.vn.

8. Nguyễn Thế Kiên, Trần Quý (2023). Chuyển đổi số để phát triển nông nghiệp công nghệ cao theo hướng đa chức năng, kinh tế tuần hoàn, Tạp chí Tài chính online.

9. Nguyễn Văn Hiếu, Hoàng Thị Huệ, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2023). Innovation Towards Circular Economy - A Theoretical Perspective, https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4446.

Ngày nhận bài: 22/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 24/9/2025; Ngày duyệt đăng: 26/9/2025