Thực trạng áp dụng hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI) tại tỉnh Thái Nguyên
ThS. NCS. Nguyễn Thị Mỹ Thọ (Tác giả liên hệ)
Trường Đại học Đông Đô
Email: mytho2808@gmail.com
GS, TS. Phạm Thị Mỹ Dung
Trường Đại học Đông Đô
TS. Đinh Phạm Hiền
Bộ Nông nghiệp và Môi trường
CN. Đinh Đức Hiếu
Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (ISPAE), Bộ Nông nghiệp và Môi trường
TS. Nguyễn Quang Tân, TS. Nguyễn Thế Mạnh
ICRAF Việt Nam
Tóm tắt
Nghiên cứu đánh giá việc áp dụng hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI) tại tỉnh Thái Nguyên thông qua điều tra 600 hộ trồng lúa tại 8 xã của Tỉnh. Kết quả chỉ ra 3 yếu tố chính tác động đến áp dụng hệ thống canh tác lúa cải tiến gồm: Quy mô ruộng đất, Tập huấn kỹ thuật và Giới tính chủ hộ. Nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa nguồn lực hộ, hỗ trợ khuyến nông và yếu tố giới, đồng thời khuyến nghị thúc đẩy tập trung ruộng đất, nâng cao chất lượng tập huấn và lồng ghép bình đẳng giới trong chính sách nông nghiệp bền vững.
Từ khóa: Hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI), yếu tố ảnh hưởng, Thái Nguyên
Summary
This study assesses the adoption of the system of rice intensification (SRI) in Thai Nguyen province through a survey of 600 rice-farming households across eight communes. The results identify three key factors influencing SRI adoption, namely landholding size, technical training, and household head’s gender. The study provides empirical evidence on the relationship between household resources, agricultural extension support, and gender dimensions, and recommends policies that promote land consolidation, enhance the quality of training programs, and mainstream gender equality in sustainable agricultural development.
Keywords: System of rice intensification (SRI), influencing factors, Thai Nguyen
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lúa gạo là cây trồng chiến lược, giữ vai trò trụ cột trong cơ cấu nông nghiệp Việt Nam, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn gắn liền với sinh kế, văn hóa và sự ổn định xã hội ở nông thôn (FAO, 2019). Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, tài nguyên đất - nước suy giảm và chi phí vật tư nông nghiệp tăng cao, ngành lúa gạo phải đối diện yêu cầu vừa nâng cao năng suất, vừa tiết giảm chi phí và đảm bảo tính bền vững môi trường (World Bank, 2020). Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI), khởi nguồn từ Madagascar và được áp dụng rộng rãi từ đầu những năm 2000, đã chứng minh hiệu quả trong việc giảm lượng giống, tiết kiệm nước, hạn chế phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời nâng cao năng suất và chất lượng gạo (CIIFAD, 2015). Ở Việt Nam, SRI được thử nghiệm từ năm 2003 và cho thấy lợi ích rõ rệt cả về kinh tế lẫn môi trường (Báo Thái Nguyên, 2014). Tuy vậy, mức độ tiếp cận và áp dụng SRI vẫn khác biệt đáng kể giữa các vùng và nhóm nông hộ, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, quy mô đất đai, cơ sở hạ tầng, sự hỗ trợ khuyến nông và yếu tố xã hội - giới (Oxfam, 2010).
Tại tỉnh Thái Nguyên, SRI phát triển mạnh trong giai đoạn trước năm 2016, song từ đó đến nay chưa có nghiên cứu hệ thống nào đánh giá lại thực trạng áp dụng trong bối cảnh mới. Điều này tạo ra khoảng trống học thuật và thực tiễn, khiến các khuyến nghị chính sách thiếu cơ sở khoa học. Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm: (i) Mô tả đặc điểm nhân khẩu - kinh tế - xã hội của các hộ sản xuất lúa tại địa bàn khảo sát; (ii) Phân tích thực trạng áp dụng SRI; (iii) Xác định và lượng hóa tác động của một số yếu tố then chốt gồm quy mô ruộng đất, tập huấn kỹ thuật và giới tính chủ hộ đến khả năng áp dụng SRI; và (iv) Đề xuất khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy mở rộng SRI theo hướng hiệu quả và bền vững tại Thái Nguyên.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhóm tác giả thực hiện khảo sát 600 hộ nông dân trồng lúa tại 8 xã đại diện cho các tiểu vùng sinh thái khác nhau của Thái Nguyên, gồm: Hà Châu, Thượng Đình, Xuân Phương, Nga My, Hợp Thành, Chợ Chu, La Hiên, Phương Giao. Các xã này được lựa chọn dựa trên tiêu chí: (i) Có diện tích lúa canh tác đáng kể, (ii) Đã từng triển khai hoặc tiếp cận mô hình SRI và (iii) Đại diện cho thành phần dân tộc và điều kiện kinh tế - xã hội. Sử dụng phân tích thống kê mô tả và so sánh, nhằm phản ánh thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng SRI của nông hộ tại tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp tiếp cận định lượng được sử dụng làm trọng tâm, bổ sung bởi các thảo luận nhóm và trao đổi với cán bộ khuyến nông để làm rõ bối cảnh địa phương.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Mô tả đặc điểm các hộ sản xuất lúa tại tỉnh Thái nguyên
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu hộ khảo sát
Chỉ tiêu |
Hà Châu |
Thượng Đình |
Xuân Phương |
Nga My |
Hợp Thành |
Chợ Chu |
La Hiên |
Phương Giao |
Số hộ khảo sát (hộ) |
70 |
56 |
61 |
76 |
88 |
101 |
115 |
33 |
Tỷ lệ dân tộc (%) |
100 (kinh) |
100 (kinh) |
100 (kinh) |
100 (kinh) |
94 (Tày) |
100 (Kinh) |
45 (Nùng) |
76 (Kinh) |
Số khẩu trung bình (người) |
5 |
6 |
4 |
5 |
4 |
4,3 |
4,4 |
5 |
Lao động nông nghiệp trung bình (người) |
2 |
3 |
2 |
2,2 |
2 |
2,38 |
2,14 |
3 |
Lao động nữ Trung bình (người) |
1,2 |
1 |
1 |
1,6 |
1 |
1,1 |
1,2 |
1 |
Tuổi trung bình người điều hành sản xuất của hộ (tuổi) |
55 |
62 |
60 |
55 |
53 |
54,7 |
55 |
48 |
Tỷ lệ chủ hộ là nam (%) |
36,2 |
44,12 |
49,18 |
33,33 |
28,75 |
51 |
65,48 |
48,48 |
Số năm học trung bình (năm) |
8 |
7 |
8 |
6 |
10 |
8 |
9 |
8 |
Quy mô đồng ruộng trung bình (ha) |
0,12 |
0,173 |
0,15 |
0,14 |
1,355 |
1,735 |
0,1987 |
0,2864 |
Nguồn: Nhóm tác giả khảo sát, 2025
Bảng 1 cho thấy sự khác biệt đáng kể về điều kiện nhân khẩu và sản xuất. Thành phần dân tộc chủ yếu là Kinh, riêng xã Hợp Thành có 94% dân tộc Tày và La Hiên có 45% là dân tộc Nùng) thể hiện sự đa dạng văn hóa, có thể ảnh hưởng tới tập quán canh tác. Quy mô hộ trung bình 4-6 người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm khoảng 2-3 người/hộ và lao động nữ từ 1-1,6 người/hộ, phản ánh vai trò quan trọng của phụ nữ trong sản xuất lúa.
Người điều hành sản xuất chủ yếu ở độ tuổi trung niên (48-62 tuổi), cho thấy quyết định kỹ thuật thường do nhóm giàu kinh nghiệm đảm nhận. Tỷ lệ nam làm chủ hộ khác biệt rõ giữa các xã, từ mức thấp ở Hợp Thành (28,8%) đến cao ở La Hiên (65,5%), phản ánh đặc thù giới trong tổ chức sản xuất. Trình độ học vấn dao động 7-10 năm, cho thấy phần lớn chủ hộ đạt từ trung học cơ sở đến phổ thông, tạo nền tảng nhất định cho việc tiếp thu kỹ thuật.
Đáng chú ý, quy mô đất canh tác phân hóa mạnh: các xã vùng đồng bằng và trung du (Hà Châu, Xuân Phương, Nga My) chỉ khoảng 0,12-0,15 ha/hộ, trong khi Hợp Thành và Chợ Chu vượt trên 1,3 ha/hộ. Sự chênh lệch này là yếu tố nền tảng giải thích khả năng áp dụng SRI đồng bộ, bởi các xã có đất manh mún gặp nhiều khó khăn hơn so với những nơi có diện tích lớn và hạ tầng thủy lợi thuận lợi.
Thực trạng áp dụng SRI
Thực trạng số hộ áp dụng SRI
Bảng 2: Tỷ lệ số hộ áp dụng SRI
|
Xã |
Số hộ điều tra (hộ) |
Số hộ áp dụng (hộ) |
Tỷ lệ áp dụng (%) |
1 |
Hà Châu |
70 |
37 |
52,86 |
2 |
Thượng Đình |
56 |
25 |
44,64 |
3 |
Xuân Phương |
61 |
25 |
40,98 |
4 |
Nga My |
76 |
21 |
27,63 |
5 |
Hợp Thành |
88 |
40 |
45,45 |
6 |
Chợ Chu |
101 |
57 |
56,44 |
7 |
La Hiên |
115 |
71 |
61,74 |
8 |
Phương Giao |
33 |
33 |
100 |
|
Tổng cộng |
600 |
309 |
51,5 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Kết quả khảo sát 600 hộ tại 8 xã của tỉnh Thái Nguyên (Bảng 2) cho thấy, tỷ lệ áp dụng SRI trung bình đạt 51,5%, song có sự phân hóa rõ rệt giữa các địa phương. Các xã La Hiên (61,7%), Chợ Chu (56,4%) và Hà Châu (52,9%) đạt mức cao, trong khi Nga My thấp nhất (27,6%). Các xã Hợp Thành, Thượng Đình và Xuân Phương duy trì ở mức trung bình, khoảng 41%-45%. Đặc biệt, Phương Giao đạt tỷ lệ 100%, do nơi đây được triển khai trực tiếp mô hình SRI, nên toàn bộ hộ tham gia khảo sát đều áp dụng. Trường hợp này không phản ánh phổ biến chung, nhưng cho thấy tác động tích cực của mô hình trình diễn và hỗ trợ có mục tiêu trong việc lan tỏa kỹ thuật mới.
Khoảng cách lớn giữa các địa phương (từ 27,6% đến 100%), chứng tỏ mức độ áp dụng SRI chịu ảnh hưởng mạnh từ hạ tầng thủy lợi, quy mô đất đai, chất lượng tập huấn và sự hiện diện của mô hình trình diễn. Những xã có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt, được tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật bài bản thường có tỷ lệ áp dụng cao hơn rõ rệt, trong khi các xã hạn chế về nguồn lực chỉ dừng ở mức trung bình hoặc thấp.
Thực trạng áp dụng các nguyên tắc của SRI
SRI bao gồm 5 nguyên tắc cơ bản. Trường hợp hộ nông dân thực hiện đầy đủ cả 5 nguyên tắc thì được xác định là áp dụng toàn phần, trong khi chỉ áp dụng một phần các nguyên tắc được coi là áp dụng từng phần.
Bảng 3: Thành phần áp dụng SRI tại các địa phương khảo sát
Thành phần kỹ thuật |
Hà Châu |
Thượng Đình |
Xuân Phương |
Nga My |
Hợp Thành |
Chợ Chu |
La Hiên |
Phương Giao |
Cấy mạ non (≤12 ngày tuổi) |
23 |
20 |
32 |
31 |
41 |
62 |
77 |
20 |
Cấy thưa, 1 dảnh/khóm |
21 |
22 |
35 |
29 |
47 |
60 |
77 |
21 |
Tưới ướt khô xen kẽ |
19 |
17 |
28 |
18 |
28 |
51 |
34 |
15 |
Làm cỏ sục bùn |
7 |
10 |
18 |
3 |
30 |
42 |
47 |
10 |
Tăng dùng phân hữu cơ |
9 |
12 |
17 |
0 |
29 |
27 |
69 |
17 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Kết quả khảo sát (Bảng 3) cho thấy, mức độ áp dụng các thành phần kỹ thuật SRI giữa các xã có sự khác biệt rõ rệt, phản ánh điều kiện sản xuất và nguồn lực hộ gia đình. Trong số các kỹ thuật, cấy mạ non và cấy thưa được áp dụng phổ biến nhất. Các xã La Hiên, Chợ Chu và Phương Giao đạt tỷ lệ trên 60%, trong khi Hà Châu, Thượng Đình và Nga My chỉ khoảng 30%-40%. Xuân Phương, địa phương khởi đầu SRI tại Thái Nguyên, vẫn duy trì mức trên 50%, khẳng định vai trò tiên phong trong lan tỏa kỹ thuật.
Ngược lại, tưới ướt khô xen kẽ có tỷ lệ thấp hơn (30%-40%), do phụ thuộc nhiều vào điều kiện thủy lợi. Chợ Chu và Xuân Phương đạt trên 45%, còn Nga My thấp nhất (< 25%). Hai kỹ thuật khó áp dụng nhất là làm cỏ sục bùn và tăng sử dụng phân hữu cơ; chỉ La Hiên và Chợ Chu vượt 40%, các xã còn lại, đặc biệt là Nga My gần như không thực hiện. Điều này cho thấy các biện pháp đòi hỏi nhiều lao động và vật liệu bổ sung vẫn là rào cản lớn.
Nhìn chung, các xã có điều kiện thủy lợi thuận lợi, lao động dồi dào và tiếp cận khuyến nông tốt (La Hiên, Chợ Chu, Xuân Phương) có mức áp dụng đồng bộ cao hơn. Ngược lại, những địa phương quy mô đất nhỏ, thiếu nguồn hữu cơ hoặc hạn chế hỗ trợ kỹ thuật (Nga My, Hà Châu) chủ yếu dừng lại ở khâu cấy cơ bản. Trường hợp Xuân Phương cho thấy vai trò của “hạt nhân đổi mới”, nhưng cũng nhấn mạnh nhu cầu tiếp tục hỗ trợ về lao động và vật tư để tiến tới áp dụng đầy đủ bộ kỹ thuật SRI.
Một số yếu tố ảnh hưởng tới áp dụng SRI
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng việc áp dụng SRI. Ba yếu tố trong số đó là:
Ảnh hưởng của diện tích lúa
Bảng 4: Tỷ lệ áp dụng SRI theo quy mô đất lúa
|
Xã |
Nhỏ (< 1.000 m²) |
Vừa (1.000-2.000 m²) |
Vừa (1.000-2.000 m²) |
|||
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
||
1 |
Hà Châu |
15 |
21,43 |
22 |
31,43 |
0 |
0 |
2 |
Thượng Đình |
5 |
8,93 |
13 |
23,21 |
7 |
12,5 |
3 |
Xuân Phương |
7 |
11,48 |
12 |
19,67 |
6 |
9,84 |
4 |
Nga My |
7 |
9,21 |
13 |
17,11 |
1 |
1,32 |
5 |
Hợp Thành |
2 |
2,27 |
18 |
20,45 |
20 |
22,73 |
6 |
Chợ Chu |
6 |
5,94 |
29 |
28,71 |
22 |
21,78 |
7 |
La Hiên |
16 |
13,91 |
28 |
24,35 |
27 |
23,48 |
8 |
Phương Giao |
4 |
12,12 |
9 |
27,27 |
20 |
60,61 |
Tổng |
62 |
10,33 |
144 |
24 |
103 |
17,17 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Số liệu (Bảng 4) cho thấy, mức độ áp dụng SRI khác biệt rõ theo quy mô đất canh tác. Nhóm hộ nhỏ (< 1.000 m²) có tỷ lệ áp dụng thấp nhất (10,3%), phản ánh hạn chế trong tổ chức tưới tiêu và quản lý đồng bộ. Nhóm hộ vừa (1.000-2.000 m²) đạt mức cao nhất (24%), nổi bật ở Chợ Chu, La Hiên và Phương Giao, cho thấy đây là quy mô tối ưu, đủ lớn để phát huy hiệu quả kỹ thuật nhưng vẫn trong khả năng quản lý lao động. Nhóm hộ lớn (> 2.000 m²) ở mức trung bình (17,2%), chỉ đạt tỷ lệ cao ở nơi có thủy lợi và nguồn lực tốt (La Hiên, Hợp Thành), trong khi các xã khác thấp hơn.
Kết quả khẳng định quy mô ruộng đất có ảnh hưởng quyết định đến khả năng áp dụng SRI. Diện tích nhỏ là rào cản, diện tích vừa tạo điều kiện thuận lợi, còn diện tích lớn chỉ phát huy hiệu quả nếu đi kèm hạ tầng thủy lợi và tập huấn phù hợp. Điều này cho thấy, cần gắn chính sách khuyến nông với cải thiện thủy lợi và hỗ trợ tổ chức sản xuất theo quy mô hợp lý để thúc đẩy áp dụng SRI bền vững.
Ảnh hưởng của việc tập huấn
Bảng 5: Tỷ lệ áp dụng SRI theo tham gia tập huấn
|
Xã |
Được tập huấn |
Không dược tập huấn |
||
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
||
1 |
Hà Châu |
26 |
37,14 |
11 |
15,71 |
2 |
Thượng Đình |
22 |
39,29 |
3 |
5,36 |
3 |
Xuân Phương |
15 |
24,59 |
9 |
14,75 |
4 |
Nga My |
17 |
22,37 |
4 |
5,26 |
5 |
Hợp Thành |
31 |
35,23 |
9 |
10,23 |
6 |
Chợ Chu |
38 |
37,62 |
19 |
18,81 |
7 |
La Hiên |
34 |
29,57 |
37 |
32,17 |
8 |
Phương Giao |
8 |
24,24 |
25 |
75,76 |
|
Tổng |
191 |
31,83 |
117 |
19,5 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Kết quả khảo sát (Bảng 5) cho thấy, có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm hộ được tập huấn và không tập huấn trong việc áp dụng SRI, khẳng định vai trò then chốt của hoạt động khuyến nông. Trong tổng số hộ được khảo sát, 191 hộ thuộc nhóm được tập huấn đã áp dụng SRI, chiếm 31,8%, cao hơn đáng kể so với 19,5% ở nhóm không tập huấn. Ở các xã như Hà Châu (37,1%), Thượng Đình (39,3%), Chợ Chu (37,6%) và Hợp Thành (35,2%), tỷ lệ hộ áp dụng SRI trong nhóm được tập huấn cao gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba so với nhóm không tập huấn, phản ánh hiệu quả trực tiếp của đào tạo và mô hình trình diễn trong thay đổi hành vi sản xuất.
Ngược lại, nhóm hộ không tập huấn có tỷ lệ áp dụng thấp, chỉ khoảng 5%-15% ở nhiều địa phương như Thượng Đình, Nga My hay Hà Châu. Phương Giao là trường hợp ngoại lệ khi 75,8% hộ không tập huấn vẫn áp dụng SRI, nhờ vào tác động lan tỏa từ mô hình SRI toàn diện được triển khai tại đây.
Một điểm đáng chú ý khác xuất hiện tại La Hiên, nơi tỷ lệ áp dụng của nhóm tập huấn (29,6%) và không tập huấn (32,2%) gần như tương đương. Điều này gợi ý rằng, ngoài tập huấn chính thức, các yếu tố khác như kinh nghiệm sản xuất, mạng lưới xã hội hay hỗ trợ phi chính thức cũng có ảnh hưởng đáng kể đến việc tiếp nhận kỹ thuật.
Ảnh hưởng của giới tính
Bảng 6: Tỷ lệ áp dụng SRI theo giới tính
|
Xã |
Nam |
Nữ |
||
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
Số hộ áp dụng |
Tỷ lệ so tổng số hộ (%) |
||
1 |
Hà Châu |
9 |
12,86 |
28 |
40,0 |
2 |
Thượng Đình |
15 |
26,79 |
10 |
17,86 |
3 |
Xuân Phương |
12 |
19,67 |
13 |
21,31 |
4 |
Nga My |
7 |
9,21 |
14 |
18,42 |
5 |
Hợp Thành |
12 |
13,64 |
28 |
31,82 |
6 |
Chợ Chu |
25 |
24,75 |
32 |
31,68 |
7 |
La Hiên |
50 |
43,48 |
21 |
18,26 |
8 |
Phương Giao |
16 |
48,48 |
17 |
51,52 |
Tổng |
146 |
24,33 |
163 |
27,17 |
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Liên hệ so sánh với với yếu tố tập huấn (Bảng 5) cho thấy, ở những xã có tỷ lệ nữ tham gia tập huấn cao (như Hà Châu, Hợp Thành), nữ cũng chiếm ưu thế về áp dụng SRI. Điều này chứng tỏ sự kết hợp giữa vai trò giới và cơ hội tiếp cận khuyến nông là yếu tố thúc đẩy áp dụng kỹ thuật.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nghiên cứu cho thấy mức, độ áp dụng SRI của nông hộ miền núi phía Bắc chịu tác động chủ yếu bởi 3 yếu tố: (i) Quy mô ruộng đất, (ii) Tập huấn kỹ thuật, và (iii) Giới tính chủ hộ. Các hộ có diện tích lớn và được tham gia tập huấn thường áp dụng SRI đồng bộ và bền vững hơn. Đặc biệt, hộ do nữ làm chủ có tỷ lệ áp dụng cao hơn, phản ánh vai trò nổi bật của phụ nữ trong sản xuất lúa và lan tỏa đổi mới kỹ thuật. Về mặt khoa học, kết quả này bổ sung bằng chứng về mối quan hệ giữa nguồn lực sản xuất, tiếp cận dịch vụ hỗ trợ và yếu tố giới trong đổi mới nông nghiệp.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:
Về quy mô đất đai. Cần tiếp tục thúc đẩy các chính sách tích tụ và tập trung đất nông nghiệp, cũng như khuyến khích các hình thức liên kết hợp tác giữa hộ nông dân, tạo điều kiện thuận lợi cho áp dụng đồng bộ các kỹ thuật SRI, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý thủy lợi và giảm chi phí sản xuất.
Về khuyến nông - đào tạo. Cần mở rộng và nâng cao chất lượng các chương trình tập huấn gắn với thực hành đồng ruộng, đồng thời tăng cường năng lực hệ thống khuyến nông cơ sở để hỗ trợ và nhân rộng mô hình SRI.
Về bình đẳng giới. Cần lồng ghép yếu tố giới trong toàn bộ quá trình xây dựng và triển khai chính sách nông nghiệp; cần có cơ chế khuyến khích và hỗ trợ phụ nữ tham gia vào các nhóm nông dân, mạng lưới sản xuất cũng như tiếp cận nguồn lực tín dụng, đào tạo và dịch vụ công. Đây là điều kiện quan trọng để vừa nâng cao hiệu quả áp dụng SRI, vừa thúc đẩy tiến bộ xã hội và phát triển bền vững ở khu vực nông thôn miền núi.
(*) Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn Dự án Learn VN do tổ chức Nghiên cứu Nông lâm Quốc tế (ICRAF Việt Nam) đã hỗ trợ cho nghiên cứu này.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo Thái Nguyên (2014). Kết quả áp dụng canh tác lúa SRI tại Thái Nguyên. https://baothainguyen.vn/kinh-te/201406/hieu-qua-tu-canh-tac-lua-cai-tien-sri-36727F2/.
2. CIIFAD (2015). System of Rice Intensification (SRI): Scientific Bases and an Eco-Agricultural Approach. Cornell International Institute for Food, Agriculture and Development.
3. CIIFAD (2014). Women and rice farming: Feeding the world. Cornell International Institute for Food, Agriculture and Development.
4. FAO (2019). Rice Market Monitor. Food and Agriculture Organization of the United Nations.
5. Oxfam (2010). Gender Dimensions of the Adoption of the System of Rice Intensification (SRI) in Cambodia. Oxfam America.
6. Sabarmatee, M., Prasad, S., Maat, H., and Glover, D. (2025). Masculine tools and feminine tasks: The dynamic interplay of gender and technology through System of Rice Intensification. International Journal of Rural Management. https://journals.sagepub.com/doi/10.1177/097300522513070.
7. Resurreccion, B. P., Sajor, E. E., and Sophea, H. (2008). Gender dimensions of the adoption of the System of Rice Intensification (SRI) in Cambodia. Oxfam America. https://sri.cals.cornell.edu/countries/cambodia/cambOxfamSRIGenderEval08.pdf
8. World Bank (2020). Vietnam agriculture sector review 2020. World Bank Group.
Ngày nhận bài: 28/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 19/9/2025; Ngày duyệt đăng: 24/9/2025 |
Bình luận