TS. Lê Đăng Minh

Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn (STU)

Email: minh.ledang@stu.edu.vn

Tóm tắt

Thương mại điện tử xuyên biên giới tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình này gặp nhiều rào cản như: hạn chế năng lực số, hạ tầng logistics yếu, khung pháp lý chưa hoàn thiện và áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp nhỏ và vừa Trung Quốc. Dựa trên mô hình phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới của Trung Quốc, bài viết phân tích chính sách hỗ trợ, nền tảng số, hệ sinh thái logistics và đào tạo nguồn nhân lực để rút ra bài học cho Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu đề xuất nhóm giải pháp: xây dựng khu thí điểm thương mại điện tử xuyên biên giới, phát triển logistics xuyên biên giới, thúc đẩy nền tảng nội địa, hỗ trợ tài chính - bảo hiểm và nâng cao năng lực số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các khuyến nghị được đặt trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khu vực tư nhân và Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, thương mại điện tử xuyên biên giới, Trung Quốc, nền tảng số, logistics, chính sách phát triển

Summary

Cross-border e-commerce enables Vietnamese small and medium-sized enterprises (SMEs) to integrate more deeply into global value chains. However, this process face major challenges including limited digital capabilities, weak logistics infrastructure, an underdeveloped legal framework, and competitive pressure from Chinese SMEs. Drawing on China’s cross-border e-commerce development model, this paper analyzes support policies, digital platforms, logistics ecosystems, and workforce training to derive lessons for Vietnam. Based on these insights, the study proposes a set of solutions: establishing cross-border e-commerce pilot zones, developing cross-border logistics, promoting domestic digital platforms, providing financial and insurance support, and enhancing SMEs’ digital capacity. The recommendations are framed within the context of implementing Resolution No. 68-NQ/TW of the Politburo on private sector development and Resolution No. 57-NQ/TW on breakthroughs in science, innovation, and national digital transformation.

Keywords: Small and medium-sized enterprises, cross-border e-commerce, China, digital platforms, logistics, development policies

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và chuyển đổi số, thương mại điện tử (TMĐT) xuyên biên giới đang trở thành động lực tăng trưởng mới, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển. TMĐT xuyên biên giới giúp doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), tiếp cận thị trường quốc tế nhanh hơn, tiết kiệm chi phí và vượt qua rào cản phân phối truyền thống.

DNNVV chiếm hơn 90% doanh nghiệp toàn cầu và đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế (Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO, 2020). Tuy nhiên, do hạn chế về vốn, công nghệ và nhân lực, việc quốc tế hóa của khu vực này gặp nhiều trở ngại. TMĐT xuyên biên giới nhờ đó trở thành “cánh cửa hội nhập” tiềm năng, cho phép DNNVV tiếp cận trực tiếp người tiêu dùng toàn cầu qua nền tảng số.

Tại Việt Nam, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), năm 2023, DNNVV chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp và đóng góp gần 45% GDP. Mặc dù giữ vai trò chủ lực trong nền kinh tế tư nhân, song phần lớn DNNVV vẫn tập trung vào thị trường nội địa, trong khi năng lực tham gia TMĐT xuyên biên giới còn hạn chế. Trong bối cảnh Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), khả năng tận dụng các thị trường này thông qua TMĐT xuyên biên giới là một yêu cầu cấp thiết.

Sự cấp thiết càng được nhấn mạnh khi đặt trong bối cảnh triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết xác định mục tiêu đến năm 2030, có ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. TMĐT xuyên biên giới, nếu được phát triển đúng hướng, sẽ là công cụ quan trọng giúp DNNVV thực hiện mục tiêu này. Việc thúc đẩy DNNVV tham gia TMĐT xuyên biên giới không chỉ gia tăng năng lực hội nhập, mà còn đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Nhiều nghiên cứu quốc tế khẳng định, TMĐT xuyên biên giới là yếu tố quan trọng thúc đẩy quốc tế hóa DNNVV. Theo WTO (2020), TMĐT xuyên biên giới giúp doanh nghiệp nhỏ giảm chi phí tiếp cận thị trường và tăng khả năng giao dịch toàn cầu. Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 2021) cũng nhấn mạnh vai trò “bình đẳng hóa” của TMĐT xuyên biên giới khi tạo điều kiện xuất khẩu cho DNNVV, bất kể quy mô.

Một nhánh nghiên cứu tập trung vào hiện tượng "born-global", cho thấy DNNVV có thể quốc tế hóa sớm nhờ công nghệ số và mạng lưới toàn cầu (Knight và Cavusgil, 2004). Nghiên cứu của Zhu và cộng sự (2020) phân tích vai trò tích cực của nền tảng số như: Amazon, eBay, Alibaba. Tuy nhiên, WTO (2023) cảnh báo về các rào cản như chi phí logistics cao, hạn chế thanh toán và thiếu thông tin thị trường.

Trung Quốc được xem là hình mẫu trong phát triển TMĐT xuyên biên giới hỗ trợ DNNVV. Các nghiên cứu của Alibaba Research (2022) chỉ ra vai trò của các khu thí điểm TMĐT xuyên biên giới, logistics thông minh và tài chính số. Theo Bộ Thương mại Trung Quốc (MOFCOM), tính đến năm 2023, nước này đã có 165 khu TMĐT xuyên biên giới, hỗ trợ hơn 300.000 DNNVV tham gia xuất khẩu số.

Các nền tảng như: Alibaba, JD.com và TikTok Shop không chỉ là kênh phân phối, mà còn cung cấp dịch vụ tích hợp: thanh toán, logistics, tiếp thị, kiểm soát chất lượng. Năm 2022, doanh thu TMĐT xuyên biên giới của Alibaba vượt 54 tỷ USD (Alibaba Group, 2023).

Tại Việt Nam, nhiều báo cáo cho rằng, các DNNVV có nhiều tiềm năng phát triển, nhưng còn hạn chế về năng lực số. Theo Báo cáo TMĐT Việt Nam 2023, năm 2022, có khoảng 100.000 doanh nghiệp tham gia TMĐT, nhưng tỷ lệ xuất khẩu qua nền tảng vẫn thấp. Khảo sát của Access Partnership (2022) và Amazon cho thấy, 86% DNNVV tin rằng không thể xuất khẩu nếu thiếu TMĐT. Một số nghiên cứu của Phạm Phương Châu và cộng sự (2023) bước đầu phân tích mô hình TMĐT xuyên biên giới tại Hà Nội, nhưng chủ yếu mang tính mô tả, chưa làm rõ thách thức chiến lược, đặc biệt khi cạnh tranh với DNNVV Trung Quốc trên thị trường thứ ba.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý luận

Doanh nghiệp nhỏ và vừa và vai trò trong nền kinh tế

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 2017), DNNVV là các doanh nghiệp có dưới 250 lao động và doanh thu/tài sản không vượt ngưỡng nhất định. Tại Việt Nam, Luật Hỗ trợ DNNVV (2017) phân loại DNNVV thành siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo quy mô lao động và doanh thu.

DNNVV giữ vai trò trọng yếu trong tạo việc làm, đóng góp GDP và sự linh hoạt kinh tế, nhất là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên, họ đối mặt nhiều hạn chế về vốn, nhân lực, thông tin và công nghệ, gây trở ngại trong quốc tế hóa (Lu và Beamish, 2001).

Thương mại điện tử xuyên biên giới

TMĐT xuyên biên giới là hoạt động mua bán giữa các quốc gia. Trong kỷ nguyên số, nó gắn chặt với TMĐT xuyên biên giới, nơi mọi giao dịch được thực hiện trên nền tảng số (UNCTAD, 2021).

TMĐT xuyên biên giới giúp DNNVV mở rộng thị trường, giảm chi phí và tiếp cận khách hàng toàn cầu, nhưng cũng đặt ra thách thức về logistics, pháp lý, tiêu chuẩn và thanh toán quốc tế (Zhu và cộng sự, 2020).

Quốc tế hóa doanh nghiệp nhỏ và các mô hình lý thuyết liên quan

Có 3 mô hình lý thuyết chính thường được sử dụng để lý giải quá trình quốc tế hóa của các DNNVV:

- Mô hình Uppsala (Johanson và Vahlne, 1977) nhấn mạnh rằng, doanh nghiệp quốc tế hóa theo hướng tiến dần, từ những thị trường gần về mặt tâm lý và địa lý, với mức độ cam kết tăng dần theo thời gian cùng với sự tích lũy kinh nghiệm thị trường.

- Lý thuyết Born-global (Knight và Cavusgil, 2004) đề xuất một số doanh nghiệp quốc tế hóa gần như ngay từ khi thành lập, nhờ vào công nghệ số, tư duy toàn cầu hóa và khả năng tận dụng các mạng lưới quốc tế sớm.

- Lý thuyết mạng lưới (network theory) của Johanson và Mattsson (1988) nhấn mạnh vai trò của các mối quan hệ mạng lưới, bao gồm: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức hỗ trợ và cơ quan chính phủ, trong việc thúc đẩy quá trình quốc tế hóa. Doanh nghiệp có thể mở rộng ra thị trường quốc tế thông qua các mối liên kết sẵn có trong mạng lưới, thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân.

Sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT xuyên biên giới đang làm thay đổi logic truyền thống của quốc tế hóa, khi cho phép DNNVV tiếp cận thị trường toàn cầu mà không cần hiện diện vật lý tại nước ngoài. Trong bối cảnh đó, các mô hình born-global và network theory được xem là phù hợp hơn để phân tích động lực và chiến lược quốc tế hóa của các DNNVV trong thời kỳ số hóa.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính với cách tiếp cận mô tả - phân tích - so sánh, nhằm làm rõ cơ hội, thách thức và bài học từ kinh nghiệm quốc tế cho DNNVV Việt Nam trong TMĐT xuyên biên giới thời kỳ số hóa.

Dữ liệu nghiên cứu thu thập từ 2 nguồn chính:

- Tài liệu thứ cấp gồm: báo cáo, nghiên cứu học thuật và thống kê từ WTO, UNCTAD, OECD, Ngân hàng Thế giới (World Bank), cùng các nền tảng TMĐT xuyên biên giới như: Alibaba, Amazon, TikTok Shop. Ngoài ra, còn có tài liệu trong nước từ Bộ Công Thương, Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), VECOM và Access Partnership.

- Phân tích trường hợp điển hình Trung Quốc, tập trung vào chính sách TMĐT xuyên biên giới, phát triển nền tảng số, logistics và hỗ trợ DNNVV quốc tế hóa. Trung Quốc được chọn do có mô hình nổi bật, thể chế tương đồng và đặc điểm DNNVV gần với Việt Nam.

Quy trình phân tích gồm 3 bước: (i) Tổng hợp lý thuyết và thực tiễn; (ii) So sánh kinh nghiệm Việt Nam - Trung Quốc; (iii) Rút ra hàm ý chính sách phù hợp với bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW và Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

CƠ HỘI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và chuyển đổi số mạnh mẽ, TMĐT xuyên biên giới trở thành công cụ chiến lược giúp DNNVV Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế hiệu quả hơn. Những cơ hội nổi bật mà DNNVV Việt Nam có thể tận dụng trong kỷ nguyên số bao gồm:

Mở rộng thị trường toàn cầu thông qua nền tảng số

Các nền tảng TMĐT lớn như: Amazon, Alibaba, Shopee Global và TikTok Shop giúp DNNVV Việt Nam kết nối trực tiếp với người tiêu dùng toàn cầu mà không cần hiện diện vật lý. Theo Access Partnership (2022), 86% DNNVV Việt Nam cho rằng, họ không thể xuất khẩu nếu không có sự hỗ trợ từ các nền tảng số. Năm 2022, xuất khẩu trực tiếp từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng (B2C) qua nền tảng số đạt khoảng 3,5 tỷ USD, phần lớn từ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số - iDEA, 2023), cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của TMĐT xuyên biên giới trong chiến lược quốc tế hóa.

Tận dụng các FTA thế hệ mới

Việt Nam hiện tham gia nhiều FTA thế hệ mới như: CPTPP, EVFTA, RCEP..., tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thị trường phát triển với hàng rào thuế quan, phi thuế quan được cắt giảm. Nhiều FTA có điều khoản hỗ trợ TMĐT và chuyển đổi số. Theo Sách trắng TMĐT Việt Nam (2022), 84% doanh nghiệp đã sử dụng chữ ký điện tử và 45% áp dụng hợp đồng điện tử (Vũ Lê, 2023), thể hiện mức độ sẵn sàng cao trong khai thác lợi thế từ FTA và nền tảng số.

Hưởng lợi từ chính sách chuyển đổi số quốc gia

Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và các sáng kiến như Chương trình hỗ trợ DNNVV chuyển đổi số (SMEdx) của Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã hỗ trợ hơn 70.000 DNNVV tiếp cận giải pháp số tính đến giữa 2023. Đồng thời, sự phát triển của logistics thông minh, thanh toán điện tử và định danh số (eKYC) đang nâng cao hiệu quả xuất khẩu số cho doanh nghiệp.

Thúc đẩy mô hình D2C và xuất khẩu đơn hàng nhỏ lẻ

Mô hình nhà sản xuất bán trực tiếp cho người tiêu dùng (D2C) được nhiều DNNVV áp dụng, nhất là trong các ngành có giá trị gia tăng cao như: thủ công mỹ nghệ, nông sản hữu cơ, thời trang bền vững. TMĐT xuyên biên giới giúp loại bỏ trung gian, trực tiếp tiếp cận khách hàng và xây dựng thương hiệu toàn cầu. Các doanh nghiệp như: Liti Florist, NewBam đã chứng minh tiềm năng này. iDEA (2024) dự báo xuất khẩu đơn hàng nhỏ lẻ có thể đạt 13 tỷ USD vào năm 2027 nếu được hỗ trợ phù hợp.

Thế hệ doanh nhân số và khởi nghiệp toàn cầu hóa

Doanh nhân thế hệ Millennials và thế hệ Z (sinh từ 1982-2012) có tư duy toàn cầu và năng lực công nghệ cao, là lực lượng tiên phong trong tận dụng TMĐT xuyên biên giới để xây dựng thương hiệu quốc tế và kết nối đối tác toàn cầu. Sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp như: TECHFEST, VSV, NIC, đang mở rộng cơ hội ra thị trường quốc tế thông qua kênh số.

THÁCH THỨC HIỆN NAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ XUYÊN BIÊN GIỚI

Mặc dù TMĐT xuyên biên giới mở ra cơ hội lớn cho DNNVV Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp này vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản cấu trúc từ yếu tố nội tại và môi trường thể chế. Cụ thể:

Hạn chế trong năng lực số và trình độ quản trị

Theo iDEA (2023), chỉ 24% DNNVV tại Việt Nam ứng dụng TMĐT cơ bản. Phần lớn doanh nghiệp vận hành thủ công, thiếu đội ngũ nhân lực chuyên môn có năng lực số và kinh nghiệm quốc tế, khiến họ khó thích ứng với thay đổi trên các nền tảng phân phối số và xu hướng thị trường toàn cầu.

Hạn chế về hạ tầng logistics và chi phí xuất khẩu cao

Chi phí logistics tại Việt Nam chiếm khoảng 16,8% GDP, cao hơn mức 8%-10% ở các quốc gia phát triển (World Bank, 2023). DNNVV không thể tận dụng ưu đãi từ chuỗi logistics do quy mô nhỏ và đơn hàng không ổn định, cộng với thiếu kỹ năng khai báo hải quan và tuân thủ quy trình xuất khẩu, làm phát sinh chi phí và rào cản khi tiếp cận thị trường quốc tế qua nền tảng số.

Thiếu chiến lược xây dựng thương hiệu và marketing quốc tế

DNNVV Việt Nam thiếu đầu tư bài bản vào chiến lược thương hiệu và marketing toàn cầu. Theo VECOM (2023), hơn 80% doanh nghiệp không sử dụng tiếng Anh trong truyền thông sản phẩm, làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Điều này khiến họ thua kém DNNVV Trung Quốc về ngôn ngữ, công nghệ và kinh nghiệm thị trường.

Khung pháp lý và hỗ trợ thể chế chưa hoàn thiện

Việt Nam chưa có khung pháp lý riêng cho xuất khẩu số. Các quy định về thuế VAT, thủ tục hoàn thuế và bảo hộ thương mại còn thiếu kết nối. Các công cụ hỗ trợ như: bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và tài chính chuỗi cung ứng cũng hạn chế, gây khó khăn cho DNNVV trong việc mở rộng hoạt động quốc tế.

Cạnh tranh từ doanh nghiệp nhỏ và vừa Trung Quốc

DNNVV Trung Quốc có lợi thế vượt trội về chi phí, logistics và sự hỗ trợ từ hệ sinh thái thương mại số như: Alibaba, JD.com. Trung Quốc chiếm hơn 35% tổng giá trị giao dịch TMĐT xuyên biên giưới toàn cầu (iResearch, 2023), trong khi Việt Nam dưới 1%. DNNVV Việt Nam không chỉ cạnh tranh về giá, mà còn về chất lượng dịch vụ và thời gian giao hàng.

Rủi ro thương mại

SMEs Việt Nam đối mặt với các rủi ro như: gian lận thương mại, biến động tỷ giá và thiếu hiểu biết về pháp lý quốc tế. Nhiều doanh nghiệp chưa được trang bị kỹ năng xử lý tranh chấp, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này có thể gây tổn thất lớn trong quá trình quốc tế hóa.

KINH NGHIỆM TỪ TRUNG QUỐC

Trong hơn một thập kỷ qua, Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu toàn cầu về TMĐT xuyên biên giới. Theo Bộ Thương mại Trung Quốc, năm 2023, kim ngạch xuất khẩu qua kênh số đạt khoảng 290 tỷ USD, với hơn 70% từ DNNVV. Thành công này đến từ chiến lược kết hợp thể chế linh hoạt, logistics hiện đại và số hóa mạnh mẽ.

Mô hình khu thí điểm thương mại điện tử xuyên biên giới và thể chế thử nghiệm

Một sáng kiến nổi bật là hệ thống khu thí điểm TMĐT xuyên biên giới, đóng vai trò như “phòng thí nghiệm chính sách” cho xuất khẩu số. Các khu này áp dụng cơ chế hải quan đặc biệt với mã khai báo riêng (9610, 9710), giúp gom đơn hàng nhỏ, giảm thời gian thông quan và chi phí xuất khẩu. Cách tiếp cận này phù hợp với các DNNVV có quy mô nhỏ và nguồn lực hạn chế.

Tại Hàng Châu, Thâm Quyến, các trung tâm hỗ trợ TMĐT xuyên biên giới được lập để cung cấp tư vấn pháp lý, đào tạo kỹ năng, kết nối doanh nghiệp với nền tảng, logistics và cơ quan nhà nước. Cơ chế hỗ trợ này giúp DNNVV tiếp cận thị trường quốc tế hiệu quả hơn.

Hệ sinh thái logistics tích hợp

Trung Quốc phát triển mạng lưới logistics toàn cầu qua các doanh nghiệp như: Cainiao, Zongteng và 4PX. Các mô hình tích hợp “kho bãi - hải quan - giao hàng” giúp rút ngắn thời gian giao hàng còn 5-10 ngày và giảm 20%-30% chi phí (Alibaba Group, 2020). DNNVV có thể tập kết hàng trong nước rồi vận chuyển ra kho ngoại quốc, tối ưu tiến độ và chi phí.

Hạ tầng logistics tích hợp với nền tảng số, giúp theo dõi đơn hàng theo thời gian thực, kiểm tra chất lượng và truy xuất nguồn gốc - yếu tố ngày càng quan trọng trong TMĐT xuyên biên giới.

Nền tảng số nội địa và chương trình số hóa doanh nghiệp nhỏ và vừa

Không như nhiều nước phụ thuộc vào nền tảng quốc tế, Trung Quốc sở hữu hệ sinh thái số nội địa mạnh với các tên tuổi như: Alibaba, JD, Douyin, Shein… Các nền tảng này không chỉ phân phối, mà còn cung cấp logistics, marketing, thanh toán, đào tạo và hỗ trợ pháp lý.

Song song, Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin triển khai nhiều chương trình số hóa cho SMEs như: phổ cập hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP), quản lý quan hệ khách hàng (CRM), kết nối dữ liệu hải quan - ngân hàng, tổ chức hội chợ TMĐT xuyên biên giới. Nhờ đó, tỷ lệ DNNVV ứng dụng nền tảng số trong xuất khẩu tăng từ 41% năm 2019 lên gần 63% năm 2022, đặc biệt tại vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa.

Hỗ trợ tài chính và dịch vụ hậu cần

Trong hoạt động TMĐT xuyên biên giới, Trung Quốc cung cấp các gói hỗ trợ tài chính cho DNNVV như: Quỹ đầu tư nhà nước, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (SINOSURE), tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB). Dịch vụ tư nhân về xử lý khiếu nại quốc tế, quản lý tài khoản, xây dựng thương hiệu số và tư vấn mở rộng thị trường cũng phát triển mạnh.

Theo MOFCOM (2023), hơn 68% SMEs duy trì hoạt động TMĐT xuyên biên giới liên tục trên 2 năm, cho thấy hiệu quả thực tiễn từ chính sách tài chính và dịch vụ hỗ trợ chuyên biệt.

HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

Trong bối cảnh toàn cầu hóa thương mại chuyển dịch mạnh sang nền tảng số, việc thúc đẩy DNNVV Việt Nam tham gia TMĐT xuyên biên giới không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là lựa chọn chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và khai thác hiệu quả kinh tế số. Từ kinh nghiệm phát triển TMĐT xuyên biên giới của Trung Quốc, quốc gia dẫn đầu lĩnh vực này, có thể rút ra một số hàm ý chính sách phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Một là, thiết lập khu thí điểm thương mại điện tử xuyên biên giới và hoàn thiện thể chế thử nghiệm

Cần thành lập khu thí điểm TMĐT xuyên biên giới tại các địa phương có lợi thế logistics và hạ tầng số như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh hay Đà Nẵng, nhằm tạo không gian chính sách linh hoạt cho DNNVV thử nghiệm xuất khẩu số. Các biện pháp gồm: áp dụng mã khai báo riêng cho đơn hàng nhỏ (như 9610 hoặc 1210), tích hợp dữ liệu giữa hải quan, ngân hàng, logistics và sàn TMĐT và ban hành khung pháp lý riêng cho xuất khẩu số để bảo vệ người bán, đơn giản thủ tục, phù hợp với đặc thù DNNVV.

Hai là, phát triển logistics xuyên biên giới và trung tâm xử lý đơn hàng

Logistics là điểm nghẽn lớn với DNNVV Việt Nam khi tham gia TMĐT xuyên biên giới. Nhà nước cần hỗ trợ phát triển mạng lưới kho hàng và trung tâm xử lý đơn tại cửa khẩu, cảng biển và sân bay chiến lược. Đồng thời, thu hút doanh nghiệp logistics trong và ngoài nước vào chuỗi TMĐT xuyên biên giới tích hợp; thúc đẩy kết nối DNNVV với hệ thống logistics toàn cầu (Cainiao, DHL, FedEx); nâng cao năng lực quốc tế hóa cho các doanh nghiệp logistics trong nước như: EMS, Viettel Post, Nhất Tín...

Ba là, phát triển nền tảng số và xúc tiến thương mại điện tử quốc tế

Thúc đẩy xây dựng các nền tảng số nội địa đủ mạnh để hỗ trợ DNNVV xuất khẩu TMĐT. Ưu tiên phát triển các nền tảng B2B và D2C tích hợp quản trị - thanh toán - tiếp thị; tổ chức hội chợ trực tuyến quốc tế kết nối DNNVV với đối tác toàn cầu; khuyến khích hợp tác công - tư với các sàn lớn như: Shopee, Tiki, Lazada để hỗ trợ DNNVV mở gian hàng quốc tế, quảng bá và mở rộng thị trường.

Bốn là, hỗ trợ tài chính, bảo hiểm và dịch vụ thương mại điện tử xuyên biên giới chuyên biệt

Việc xây dựng hệ thống tài chính - bảo hiểm riêng cho TMĐT xuyên biên giới là điều kiện tiên quyết. Các chính sách gồm: quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp mới xuất khẩu số; bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đơn giản, chi phí thấp; phát triển cơ sở dữ liệu thương mại số quốc gia về thị trường, tín nhiệm và rủi ro; đồng thời, mở rộng dịch vụ hỗ trợ như: đăng ký nhãn hiệu, tư vấn quốc tế hóa và xử lý tranh chấp.

Năm là, nâng cao năng lực số hóa và quốc tế hóa của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Chính phủ cần triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu về TMĐT xuyên biên giới như: vận hành sàn, tiếp thị số, logistics, quản trị rủi ro; hỗ trợ DNNVV xây dựng hồ sơ điện tử, nhãn hiệu quốc tế và hệ thống thương hiệu đa ngôn ngữ; tư vấn 1-1 theo cụm ngành; đồng thời, ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, sản phẩm có giá trị gia tăng. Việc tích hợp TMĐT xuyên biên giới vào chương trình SMEdx sẽ nâng cao hiệu quả thực thi và đồng bộ chính sách.

Sáu là, cải thiện thống kê và giám sát thương mại điện tử xuyên biên giới

Thiếu dữ liệu chuyên biệt về TMĐT xuyên biên giới là rào cản lớn trong hoạch định chính sách. Cần giao Cục Thống kê phối hợp với Cục Hải quan và Cục TMĐT và Kinh tế số xây dựng bộ chỉ số TMĐT xuyên biên giới theo ngành hàng, địa phương và nền tảng. Ứng dụng công nghệ số để thu thập dữ liệu từ sàn, ngân hàng, logistics sẽ hỗ trợ hiệu quả công tác quản lý. Việc công bố định kỳ báo cáo TMĐT xuyên biên giới tương tự eWTP hoặc iResearch sẽ cung cấp thông tin cần thiết cho nhà nước và doanh nghiệp.

Có thể thấy, việc thúc đẩy DNNVV tham gia TMĐT xuyên biên giới cần được xem như một chương trình phát triển kinh tế có tính hệ thống, đòi hỏi cải cách thể chế, đầu tư logistics, phát triển nền tảng số và nâng cao năng lực doanh nghiệp. Các chính sách cần triển khai đồng bộ, có trọng tâm, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo Nghị quyết số 68-NQ/TW và Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh toàn cầu hóa số diễn ra mạnh mẽ, TMĐT xuyên biên giới mở ra cơ hội chiến lược để DNNVV Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, việc triển khai TMĐT xuyên biên giới vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt về thể chế, logistics, trình độ số hóa và sự thiếu hụt hệ sinh thái hỗ trợ chuyên biệt.

Phần lớn DNNVV Việt Nam vẫn ở giai đoạn sơ khai, với sự hiện diện hạn chế trên các nền tảng toàn cầu, năng lực quản trị và marketing quốc tế còn yếu. Mô hình xuất khẩu còn phân tán, thiếu chuẩn hóa và chưa tận dụng hiệu quả ưu đãi từ các FTA và chương trình chuyển đổi số. Đồng thời, DNNVV Việt Nam đang chịu áp lực cạnh tranh gia tăng từ DNNVV Trung Quốc - vốn có lợi thế về chi phí, công nghệ, logistics và được hỗ trợ mạnh từ khu vực công.

Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, phát triển TMĐT xuyên biên giới đòi hỏi chiến lược toàn diện, kết hợp thể chế linh hoạt, hạ tầng hiện đại, chính sách tài chính - bảo hiểm - tín dụng hiệu quả và sự tham gia của khu vực tư nhân. Thiết lập khu thí điểm TMĐT xuyên biên giới, phát triển nền tảng số nội địa, trung tâm logistics tích hợp và dịch vụ hỗ trợ trọn gói là những hướng đi đáng để Việt Nam tham khảo. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực thể chế, đầu tư logistics - chuyển đổi số và thiết kế chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia thương mại số toàn cầu là bước đi cần thiết để phát triển TMĐT xuyên biên giới bền vững.

Tài liệu tham khảo:

1. Access Partnership (2022). Small Businesses in the Digital Economy: Empowering SMEs through E-commerce. Commissioned by Amazon. https://www.accesspartnership.com

2. Alibaba Group (2020). Cainiao ramping up investment in its global network. https://www.alibabagroup.com/en/news/article?news=p200623

3. Alibaba Group (2023). Annual Report 2023. https://www.alibabagroup.com/en/ir/reports

4. Alibaba Research (2022). Cross-border E-commerce Report 2022: Empowering SMEs in Global Trade. Alibaba Group. https://www.alizila.com

5. Ban Chấp hành Trung ương (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

6. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

7. iDEA (2023). Báo cáo TMĐT Việt Nam 2023. https://ideac.gov.vn

8. iDEA (2024). Dự báo xuất khẩu TMĐT của Việt Nam giai đoạn 2024-2027. https://ideac.gov.vn

9. iResearch China (2023). China’s Cross-border E-commerce Development Report 2023. https://www.iresearchchina.com

10. Johanson, J., and Vahlne, J.E. (1977). The internationalization process of the firm - a model of knowledge development and increasing foreign market commitments. Journal of International Business Studies, 8(1), 23-32.

11. Knight, G.A., and Cavusgil, S.T. (2004). Innovation, organizational capabilities, and the born-global firm. Journal of International Business Studies, 35(2), 124-141.

12. Lu, J.W., and Beamish, P.W. (2001). The internationalization and performance of SMEs. StrCategic Management Journal, 22(6-7), 565-586.

13. OECD (2017). Enhancing the Contributions of SMEs in a Global and Digitalised Economy. Paris: OECD Publishing. https://www.oecd.org/industry/C-MIN-2017-8-EN.pdf

14. UNCTAD (2021). COVID-19 and E-commerce: A Global Review. https://unctad.org/system/files/official-document/dtlstict2021d3_en.pdf

15. VECOM (2023). Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam 2023, Hà Nội.

16. Vũ Lê (2023). Các FTA hỗ trợ thúc đẩy TMĐT xuyên biên giới. https://congthuong.vn/cac-fta-ho-tro-thuc-day-thuong-mai-dien-tu-xuyen-bien-gioi-287300.html

17. World Bank (2023). Logistics Performance Index 2023: Vietnam Overview. https://lpi.worldbank.org

18. WTO (2020). E-commerce, Trade and the COVID-19 Pandemic. World Trade Organization. https://www.wto.org/english/tratop_e/covid19_e/ecommerce_report_e.pdf

19. WTO (2023). SMEs, Trade and the Digital Economy: Building Capacity for Inclusive Growth. https://www.wto.org

20. Zhu, X., Liu, Y., and He, Z. (2020). Cross-border E-commerce and SMEs Internationalization: A Literature Review, International Journal of Emerging Markets, 15(6), 1215-1233.

Ngày nhận bài: 7/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/7/2025; Ngày duyệt đăng: 17/7/2025