Đánh giá hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng: Nghiên cứu trường hợp tại TP. Hồ Chí Minh
ThS. Hoàng Thanh Diệu
Thuế Cơ sở 19 Thành phố Hồ Chí Minh
Email: hoangthanhdieu.tct.vn@gmail.com
Tóm tắt
Sự bùng nổ thương mại điện tử tại TP. Hồ Chí Minh làm gia tăng rủi ro thất thu thuế bán hàng (thuế GTGT) do khó khăn trong nhận diện chủ thể kinh doanh, định danh giao dịch và giám sát nghĩa vụ kê khai - nộp thuế. Áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng; khảo sát 180 doanh nghiệp kinh doanh online tại TP. Hồ Chí Minh và xử lý dữ liệu bằng phần mềm Smart PLS 4.0, nghiên cứu đề xuất mô hình đánh giá hành vi gian lận thuế bán hàng trực tuyến dựa trên mô hình kim cương gian lận (Fraud Diamond) gồm áp lực/động cơ thực hiện (incentive), cơ hội thực hiện (opportunity), hợp lý hóa hành vi thực hiện (rationalization), năng lực/khả năng thực hiện (capability). Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố khả năng và nhân tố hợp lý hóa là các lực đẩy mạnh nhất của hành vi gian lận; nhân tố động cơ gia tăng hành vi và nhân tố cơ hội không có tác động đáng kể đến hành vi gian lận trong bối cảnh này. Hàm ý chính sách được đề xuất từ kết quả nghiên cứu này.
Từ khóa: Gian lận thuế, thuế bán hàng trực tuyến, mô hình kim cương gian lận, TP. Hồ Chí Minh, SEM
Summary
The rapid growth of e-commerce in Ho Chi Minh City has increased the risk of value-added tax (VAT) revenue losses due to challenges in identifying business entities, verifying transactions, and monitoring tax declaration and payment obligations. Using a quantitative research method, this study surveyed 180 online businesses in Ho Chi Minh City and analyzed the data with SmartPLS 4.0 software. It proposes a model for assessing online sales tax fraud behavior based on the Fraud Diamond framework, which includes four components: incentive, opportunity, rationalization, and capability. The findings indicate that capability and rationalization are the strongest drivers of fraudulent behavior, while incentive increases the likelihood of fraud, and opportunity shows no significant effect in this context. The study concludes with policy implications derived from these findings.
Keywords: Tax fraud, online sales tax, fraud diamond model, Ho Chi Minh City, SEM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, thương mại điện tử (TMĐT) đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại TP. Hồ Chí Minh, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức lớn đối với cơ quan Thuế trong việc giám sát và thu thuế bán hàng (thuế GTGT). Sự phát triển mạnh mẽ của các nền tảng thương mại trực tuyến, như: Shopee, Lazada, Tiki và mạng xã hội như Facebook, TikTok đã tạo ra một môi trường kinh doanh mới, nơi mà các giao dịch diễn ra nhanh chóng và khó kiểm soát (Hien và cộng sự, 2024). Tuy nhiên, việc quản lý thuế bán hàng trong không gian mạng tại TP. Hồ Chí Minh vẫn đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ, không đồng bộ giữa các cơ quan quản lý và sự phát triển mạnh mẽ của các nền tảng trực tuyến (Nga, 2025).
Nghiên cứu của Hien và cộng sự (2024) chỉ ra rằng các nhà bán lẻ trực tuyến tại TP. Hồ Chí Minh thường có xu hướng né tránh nghĩa vụ thuế do các cơ chế quản lý chưa hiệu quả, cùng với sự thiếu hiểu biết về các nghĩa vụ thuế. Hơn nữa, một số nền tảng không có cơ chế hỗ trợ đầy đủ cho người bán trong việc kê khai và thanh toán thuế, tạo ra "khoảng trống" lớn trong việc tuân thủ nghĩa vụ thuế. Trước bối cảnh đó, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng tại TP. Hồ Chí Minh trở nên cấp thiết.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Hành vi gian lận thuế là hành vi vi phạm các quy định pháp lý liên quan đến thuế, trong đó các cá nhân hoặc tổ chức cố ý làm sai lệch thông tin thuế bằng các hành vi như khai báo sai doanh thu, giả mạo chi phí, hoặc không kê khai đầy đủ các nghĩa vụ thuế. Hành vi này không chỉ dẫn đến việc giảm thu ngân sách mà còn làm suy giảm niềm tin vào hệ thống thuế và pháp luật, gây tổn hại đến sự công bằng trong môi trường kinh doanh (Cressey, 1953). Theo Nunnally và Bernstein (1994), hành vi gian lận thuế có thể xuất hiện khi có sự kết hợp giữa 3 yếu tố chính: Áp lực, Cơ hội và Năng lực thực hiện gian lận.
Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng liên quan đến các giao dịch TMĐT, trong đó người bán cố tình không kê khai đầy đủ doanh thu hoặc sử dụng các phương thức để giảm thiểu thuế phải nộp như chia nhỏ giao dịch, khai báo sai giá trị sản phẩm hoặc không thực hiện nghĩa vụ thuế đúng mức. Đặc biệt, trong bối cảnh thương mại điện tử, nơi các giao dịch xảy ra chủ yếu trực tuyến, việc quản lý thuế gặp rất nhiều khó khăn, tạo cơ hội cho các hành vi gian lận (Vũ Sơn Tùng và Trần Thanh Phong, 2022). Cressey (1953) cho rằng, hành vi gian lận thuế trong không gian mạng có thể phát sinh khi có sự kết hợp giữa áp lực tài chính, cơ hội gian lận, và khả năng hợp lý hóa hành vi vi phạm của cá nhân hoặc tổ chức.
Theo mô hình nghiên cứu của Cressey (1953) và phát triển bởi Wolfe và Hermanson (2004), hành vi gian lận xảy ra khi các yếu tố áp lực, cơ hội và năng lực kết hợp với khả năng hợp lý hóa hành vi. mô hình kim cương gian lận (fraud diamond) được áp dụng để phân tích hành vi gian lận thuế, bao gồm 4 yếu tố quan trọng tác động đến hành vi gian lận: Áp lực/động cơ (incentive), Cơ hội thực hiện (opportunity), Hợp lý hóa hành vi (rationalization), Năng lực thực hiện (Capability). Mô hình này không chỉ giúp hiểu rõ các yếu tố tâm lý và hành vi của người tham gia mà còn cung cấp một khung lý thuyết mạnh mẽ để phân tích các động lực tiềm ẩn và yếu tố thúc đẩy hành vi gian lận thuế (Wolfe và Hermanson, 2004).
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng, áp lực có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau như khó khăn tài chính, áp lực cạnh tranh hay môi trường kinh doanh không công bằng, khiến người bán có động cơ gian lận để giảm thiểu chi phí thuế (Cressey, 1953). Nghiên cứu của Vũ Sơn Tùng và Trần Thanh Phong (2022) về hành vi gian lận thuế nhập khẩu cũng đã chứng minh rằng Khả năng và Hợp lý hóa hành vi là các yếu tố tác động mạnh nhất đến hành vi gian lận. Cơ hội gian lận xuất hiện khi có sự thiếu hụt trong hệ thống giám sát thuế, tạo điều kiện cho người bán lách luật mà không bị phát hiện (Kassem và Higson, 2012). Hợp lý hóa hành vi liên quan đến việc cá nhân tìm kiếm lý do để biện minh cho hành vi gian lận của mình, chẳng hạn như nhận thức rằng "mọi người đều làm vậy" hoặc thuế quá cao (Wolfe và Hermanson, 2004). Cuối cùng, Năng lực thực hiện đề cập đến khả năng của người bán trong việc tận dụng các lỗ hổng của hệ thống thuế, bao gồm sự hiểu biết về quy trình thuế và khả năng tránh né các biện pháp kiểm tra từ cơ quan thuế (Kassem và Higson, 2012).
GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Dựa trên mô hình kim cương gian lận và các yếu tố tác động đến hành vi gian lận thuế, tác giả đề xuất các giả thuyết nghiên cứu sau:
H1: Năng lực thực hiện (CA) có tác động tích cực đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng.
H2: Cơ hội thực hiện (OP) có tác động tích cực đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng.
H3: Hợp lý hóa hành vi (RA) có tác động tích cực đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng.
H4: Áp lực/Động cơ (IN) có tác động tích cực đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng.
Dựa trên các giả thuyết đã đề xuất, mô hình nghiên cứu được xây dựng như Hình 1.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
![]() |
Nguồn: Tác giả đề xuất (2025)
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng để thu thập dữ liệu từ các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến tại TP. Hồ Chí Minh. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn bao gồm 180 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử (online). Các doanh nghiệp này được phân chia theo các tiêu chí như: quy mô doanh thu, loại sản phẩm kinh doanh (hàng hóa tiêu dùng, điện tử, dịch vụ...) và loại hình kinh doanh (doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ, siêu nhỏ). Các tiêu chí phân tầng này giúp đảm bảo tính đại diện cho đa dạng các đối tượng kinh doanh trong ngành thương mại điện tử tại TP. Hồ Chí Minh. Các phiếu khảo sát được phát tán trực tiếp và trực tuyến và sau quá trình thu thập, dữ liệu thu được đảm bảo chất lượng và tính hợp lệ cao. Dữ liệu thu thập được xử lý và phân tích bằng phần mềm Smart PLS 4.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đánh giá mô hình đo lường
Mô hình đo lường trong nghiên cứu này đã được kiểm tra tính hợp lý và độ tin cậy bằng các chỉ số Cronbach's Alpha, Composite Reliability (rho_a, rho_c) và Average Variance Extracted (AVE). Kết quả ở Hình 2 và Bảng cho thấy, giá trị Cronbach’s Alpha cho các thang đo trong mô hình dao động từ 0,848 đến 0,937, vượt qua ngưỡng yêu cầu tối thiểu là 0,7, cho thấy độ tin cậy nội bộ cao của các thang đo. Điều này có nghĩa là các câu hỏi trong bảng khảo sát đều đo lường một cách nhất quán cùng một khái niệm, phản ánh sự ổn định và đáng tin cậy của các thang đo. Hơn nữa, giá trị Composite Reliability (rho_a, rho_c) của các yếu tố trong mô hình dao động từ 0,893 đến 0,960, cũng đều vượt ngưỡng yêu cầu là 0,7, khẳng định mức độ tin cậy tổng thể cao của các yếu tố trong mô hình. Việc các giá trị rho_a và rho_c đều đạt mức cao cho thấy các yếu tố đo lường của mô hình đều có sự liên kết mạnh mẽ và không có sự mất mát trong việc đo lường.
Để đánh giá tính hợp lý của các yếu tố đo lường, chỉ số Average Variance Extracted (AVE) được tính toán. Kết quả cho thấy các giá trị AVE của các yếu tố trong mô hình nằm trong khoảng từ 0,647 đến 0,842, vượt qua ngưỡng yêu cầu là 0,5, điều này chứng tỏ các yếu tố trong mô hình đều có khả năng giải thích một phần lớn sự biến động của các biến quan sát, đồng thời đảm bảo tính hợp lý trong việc đo lường các khái niệm lý thuyết.
Bên cạnh đó, để kiểm tra tính phân biệt giữa các yếu tố trong mô hình, các giá trị Outer Loadings của tất cả các biến quan sát đều vượt qua mức 0,7. Điều này có nghĩa là các biến quan sát đều có mối quan hệ mạnh mẽ và đáng kể với các khái niệm lý thuyết mà chúng được sử dụng để đo lường, chứng tỏ rằng các thang đo đều phản ánh chính xác các yếu tố nghiên cứu.
Bảng: Mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng
| Biến độc lập | Cronbach's Alpha | Độ tin cậy tổng hợp (rho_a) | Độ tin cậy tổng hợp (rho_c) | Phương sai trung bình trích (AVE) |
| Năng lực thực hiện (CA) | 0,905 | 0,96 | 0,929 | 0,767 |
| Cơ hội thực hiện (FB) | 0,889 | 0,893 | 0,931 | 0,818 |
| Áp lực/Động cơ (IN) | 0,925 | 0,972 | 0,942 | 0,765 |
| Cơ hội thực hiện (OP) | 0,848 | 0,927 | 0,879 | 0,647 |
| Hợp lý hóa hành vi (RA) | 0,937 | 0,939 | 0,955 | 0,842 |
Nguồn: Phân tích từ dữ liệu nghiên cứu
Cuối cùng, các chỉ số Heterotrait-Monotrait ratio (HTMT) được tính toán để đánh giá tính phân biệt của các yếu tố trong mô hình. Kết quả cho thấy tất cả các giá trị HTMT đều < 0,85, điều này cho thấy không có sự trùng lặp quá mức giữa các yếu tố trong mô hình và chứng tỏ tính phân biệt rõ ràng giữa các yếu tố lý thuyết. Tính phân biệt này là một yếu tố quan trọng để khẳng định rằng, các yếu tố trong mô hình không chỉ đo lường các khái niệm khác nhau, mà còn giúp loại bỏ khả năng các yếu tố này bị trộn lẫn hoặc đo lường một cách không chính xác.
Tóm lại, các chỉ số đánh giá độ tin cậy và tính hợp lý của mô hình đo lường đều cho kết quả tích cực, cho thấy mô hình đo lường trong nghiên cứu này là hợp lý, tin cậy và có khả năng phản ánh chính xác các khái niệm lý thuyết.
Hình 2: Kết quả kiểm định mô hình đo lường trên Smart PLS
![]() |
Nguồn: Phân tích PLS Algorithm trong Smart PLS 4.0
Đánh giá mô hình cấu trúc
Kết quả từ phân tích Structural Equation Modeling (SEM) chỉ ra rằng, các path coefficients giữa các yếu tố trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê và thể hiện mối quan hệ rõ rệt giữa các yếu tố tác động đến hành vi gian lận thuế. Cụ thể, Hợp lý hóa hành vi (RA) có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng, với path coefficient = 0,512 và p-value < 0,05, cho thấy mối quan hệ này có tính chất mạnh mẽ và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy, khi người bán cảm thấy hành vi gian lận thuế có thể được hợp lý hóa (ví dụ “mọi người đều làm vậy” hoặc “thuế quá cao”), họ sẽ có xu hướng thực hiện gian lận thuế một cách dễ dàng. Trong khi đó, Động cơ và cơ hội, mặc dù có tác động lý thuyết đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng, nhưng không có tác động mạnh mẽ và không có ý nghĩa thống kê đáng kể trong mô hình nghiên cứu này. IN chỉ có path coefficient là 0,009 và OP có path coefficient là 0,076, với p-values lần lượt là 0,922 và 0,459, cho thấy những yếu tố này không đủ mạnh để tác động trực tiếp đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng tại TP. Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, các chỉ số thống kê về độ phù hợp của mô hình như CFI (Comparative Fit Index), TLI (Tucker-Lewis Index) và RMSEA (Root Mean Square Error of Approximation) cho thấy mô hình có độ phù hợp rất tốt với dữ liệu thực tế. Cụ thể, CFI đạt 0,967, TLI = 0,962 và RMSEA = 0,037, tất cả đều vượt qua ngưỡng yêu cầu, cho thấy mô hình có sự phù hợp cao và có thể được áp dụng để phân tích hành vi gian lận thuế trong các nghiên cứu tương tự. Những kết quả này khẳng định tính chính xác và hiệu quả của mô hình trong việc phân tích các yếu tố tác động đến Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng.
Thảo luận
Nghiên cứu này sử dụng mô hình kim cương gian lận (Fraud Diamond) để phân tích hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng tại TP. Hồ Chí Minh, tương tự như nghiên cứu của Tùng và Phong (2022) về gian lận thuế nhập khẩu tại Long An. Mô hình Kim Cương của Cressey (1953) chỉ ra rằng, Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng phụ thuộc vào 4 yếu tố: Áp lực/động cơ (incentive), Cơ hội thực hiện (opportunity), Hợp lý hóa hành vi (rationalization) và Khả năng thực hiện (capability). Trong nghiên cứu của Vũ Sơn Tùng và Trần Thanh Phong (2022), các yếu tố này đều có tác động mạnh mẽ đến hành vi gian lận thuế nhập khẩu, với sự tập trung đặc biệt vào năng lực và hợp lý hóa hành vi. Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy, tương tự như trong nghiên cứu này, Hợp lý hóa hành vi (rationalization) là yếu tố chủ yếu thúc đẩy Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng, trong khi Động cơ và Cơ hội không có tác động mạnh như mong đợi.
Ngoài ra, nghiên cứu của Vũ Sơn Tùng và Trần Thanh Phong (2022) cũng chỉ ra rằng, năng lực thực hiện, đặc biệt là sự hiểu biết về quy trình thuế và khả năng tận dụng lỗ hổng trong hệ thống thuế, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện hành vi gian lận. Đây là yếu tố cốt lõi để giải thích tại sao các doanh nghiệp có thể dễ dàng hợp lý hóa hành vi gian lận của mình.
Mô hình kim cương gian lận đã được mở rộng và áp dụng trong bối cảnh thuế bán hàng qua không gian mạng tại TP. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu bổ sung một số đóng góp quan trọng vào lý thuyết, đặc biệt là: Khả năng thực hiện và Hợp lý hóa hành vi là 2 yếu tố chính thúc đẩy Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng, điều này tương tự như kết quả từ các nghiên cứu trước đây về gian lận thuế nhập khẩu. Áp lực/động cơ và Cơ hội không tác động mạnh đến Hành vi gian lận thuế trong bối cảnh này, điều này bổ sung thêm một khía cạnh mới cho mô hình kim cương khi nghiên cứu hành vi gian lận thuế trong môi trường thương mại điện tử. Nghiên cứu đã mở rộng và xác nhận rằng, các yếu tố Hợp lý hóa hành vi và Khả năng thực hiện không chỉ đóng vai trò trực tiếp, mà còn có ảnh hưởng gián tiếp qua Cơ hội thực hiện, điều này tạo ra một mô hình phân tích gian lận thuế phức tạp hơn và có thể áp dụng rộng rãi cho các nghiên cứu khác về gian lận trong các ngành và khu vực khác.
Kết quả nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc mở rộng lý thuyết về hành vi gian lận thuế trong thương mại điện tử, giúp cơ quan Thuế và các nhà hoạch định chính sách đưa ra những biện pháp hiệu quả hơn để ngăn chặn gian lận thuế trong môi trường số hóa.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Khả năng thực hiện và Hợp lý hóa hành vi là các yếu tố có tác động đến việc thúc đẩy Hành vi gian lận thuế bán hàng qua không gian mạng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các yếu tố Hợp lý hóa hành vi và Khả năng thực hiện không chỉ đóng vai trò trực tiếp, mà còn có ảnh hưởng gián tiếp qua Cơ hội thực hiện.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, có thể đề xuất một số hàm ý chính sách để giảm thiểu hành vi gian lận thuế trong không gian mạng: Cần cải thiện hệ thống giám sát thuế và áp dụng công nghệ mới để theo dõi giao dịch bán hàng trực tuyến. Điều này sẽ giúp phát hiện gian lận thuế từ các doanh nghiệp không tuân thủ. Cần đơn giản hóa quy trình kê khai và nộp thuế cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Các chính sách khuyến khích tuân thủ thuế, như ưu đãi về thuế cho những doanh nghiệp tuân thủ tốt, có thể giúp giảm thiểu gian lận. Các chiến dịch nâng cao nhận thức về nghĩa vụ thuế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và các cá nhân bán hàng trực tuyến, sẽ giúp giảm thiểu hành vi gian lận thông qua việc hợp lý hóa hành vi.
Tài liệu tham khảo:
1. Cressey, D. R. (1953). Other People's Money, Montclair, NJ: Patterson Smith.
2. Hien, B. N., Tuyen, N. T. K., Lan, N. T., Ngan, N. T. K., & Thanh, N. N. (2024). The Impact Of Digital Government Initiatives On Public Value Creation: Evidence From Ho Chi Minh City - Vietnam. Revista de Gestao Social e Ambiental, 18(2), Article e04892. https://doi.org/10.24857/RGSA.V18N2-092.
3. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005). Phân tích dữ liệu với SPSS. Nxb. Thống kê.
4. Kassem, R. & Higson, A. (2012). The New Fraud Triangle Model. Journal of Emerging Trends in Economics and Management Sciences, 3(3), 191-195.
5. Lam, M. D. (2023). Factors affecting business households’ tax compliance behaviour: empirical evidence from Ho Chi Minh City, Vietnam. Journal for Global Business Advancement, 16(5), 762-784. https://doi.org/10.1504/JGBA.2023.145696.
6. Nga, T. K. (2025). Tax management in Vietnam's e-commerce sector: Challenges in enforcement and strategies for improving taxpayer identification and fairness. International Journal of Advanced and Applied Sciences, 12(8), 16-30. https://doi.org/10.21833/ijaas.2025.08.002.
7. Ngo, Q. D. (2024). The Future of E-Commerce Taxation in Vietnam: A Causal Layered Analysis Approach. Journal of Futures Studies, 29(2), 1-16. https://doi.org/10.6531/JFS.202412_29(2).0001.
8. Nunnally, J. C. & Bernstein, I. H. (1994). Psychometric Theory, 3rd ed. New York: McGraw-Hill.
9. Vũ Sơn Tùng và Trần Thanh Phong (2022). Áp dụng mô hình kim cương đo lường hành vi gian lận thuế nhập khẩu: Nghiên cứu trường hợp tại Cục Hải quan tỉnh Long An. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng Châu Á, 194, 66-77.
10. Wolfe, D. T. & Hermanson, D. R. (2004). The fraud diamond: Considering the four elements of fraud. CPA Journal, 74(12), 38-42.
| Ngày nhận bài: 15/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 2/10/2025; Ngày duyệt đăng: 22/10/2025 |



Bình luận