TS. Trịnh Thị Thu

Viện KHXH Vùng Trung Bộ và Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Email: trinhthangbinh1976@gmail.com

Tóm tắt

Quá trình đô thị hóa nội ô và công nghiệp hóa nhanh chóng đang tạo ra những thách thức trong bảo tồn không gian, cảnh quan sinh thái và phát triển bền vững tại các làng nghề truyền thống. Trên cơ sở phân tích, nhận diện các làng nghề là tài nguyên văn hóa chiến lược, nghiên cứu tổng hợp kinh nghiệm quốc tế điển hình về tái thiết làng nghề trong không gian đô thị tích hợp với đặc điểm phát triển du lịch làng nghề tại Trung Quốc và Malaysia; cung cấp cơ sở xây dựng mô hình tái thiết của 3 cấp độ từ vật chất, xã hội đến tinh thần; qua đó đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch cho các làng nghề ở TP. Đà Nẵng tích hợp với thế mạnh kinh tế biển và công nghiệp văn hóa sáng tạo đặc trưng của địa phương.

Từ khóa: Tái thiết đô thị, du lịch làng nghề, sáng tạo, thành phố Đà Nẵng

Summary

The rapid process of inner-city urbanization and industrialization is posing significant challenges to the preservation of space, ecological landscapes, and the sustainable development of traditional craft villages. Based on an analysis that identifies craft villages as strategic cultural resources, the study synthesizes exemplary international experiences in the regeneration of craft villages within integrated urban spaces, particularly focusing on models from China and Malaysia where craft village tourism has been effectively developed. The research proposes a three-tiered regeneration model, encompassing physical, social, and spiritual dimensions and offers a number of tourism development solutions for traditional craft villages in Da Nang City. These proposals aim to integrate the city’s strengths in marine economy and its distinctive creative cultural industries.

Keywords: Urban regeneration, craft village tourism, creativity, Da Nang City

ĐẶT VẤN ĐỀ

TP. Đà Nẵng, một trong những đô thị trung tâm năng động bậc nhất miền Trung Việt Nam, đang đối mặt với thách thức kép trong quá trình đô thị hóa. Việc mở rộng không gian đô thị nhằm phục vụ tăng trưởng kinh tế và phát triển du lịch đã đặt ra bài toán về sự tồn tại và vai trò của các làng nghề truyền thống như làng nước mắm Nam Ô, làng đá mỹ nghệ Non Nước hay làng chiếu Cẩm Nê, vốn nằm xen kẽ hoặc cận kề các khu vực nội thị. Những làng nghề này không chỉ là di sản của tri thức nghề truyền thống mà còn là biểu tượng của bản sắc văn hóa địa phương. Tuy nhiên, dưới áp lực đô thị hóa, các làng nghề đang đứng trước nguy cơ bị xóa mờ cấu trúc không gian vốn có và mai một những giá trị cốt lõi.

Quá trình đô thị hóa nội ô và công nghiệp hóa nhanh chóng đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng trong bảo tồn không gian, cảnh quan sinh thái và phát triển bền vững tại các làng nghề truyền thống. Hiện tượng này tương đồng với khái niệm bán đô thị hóa (semi-urbanization) tại Trung Quốc, nơi các làng trong phố (urban villages) phải đối mặt với cấu trúc lưỡng cực nông thôn - đô thị (Lin và cộng sự, 2022). Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế đã chứng minh rằng việc tái thiết có thể đan xen tính nông thôn vào đổi mới đô thị thông qua du lịch di sản và sáng tạo (Gao, J., & Wu, B., 2017). Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều thành phố đang nhận ra rằng năng lực cạnh tranh văn hóa là yếu tố then chốt, thúc đẩy sự chuyển đổi từ mô hình du lịch cảnh quan sang du lịch sáng tạo (Tan, Y. R., 2019). Kinh nghiệm quốc tế từ Trung Quốc, đặc biệt qua các mô hình chuyển đổi làng trong phố (urban villages), các làng xã nông thôn như làng Viên Gia (Yuanjia) hay làng nghề cá Losong Haji Su tại Malaysia, đã minh chứng cho một chiến lược mới: tái thiết đô thị gắn với du lịch làng nghề. Cụ thể, các làng trong phố đã được tái cấu trúc thông qua du lịch để phá vỡ cấu trúc lưỡng cực nông thôn - đô thị và thúc đẩy kinh tế địa phương.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế điển hình về tái thiết làng nghề trong không gian đô thị tích hợp với đặc điểm phát triển du lịch làng nghề và đề xuất các giải pháp quản trị hợp tác sẽ cung cấp một khung lý thuyết thực tiễn nhằm tích hợp thành công các giá trị văn hóa này vào quy hoạch phát triển du lịch làng nghề bền vững của TP. Đà Nẵng.

LÝ LUẬN VỀ TÁI THIẾT ĐÔ THỊ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

Tái thiết đô thị không đơn thuần là việc xây mới trên nền các công trình cũ mà là quá trình tác động vào không gian đô thị, có sự gắn kết và tương tác với nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau (Mai Trọng Nhuận và cộng sự, 2010); là gìn giữ hồn cốt của giá trị cũ trong khi vẫn đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống hiện đại. Theo Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị, khu vực tái thiết đô thị là khu vực phát triển đô thị được đầu tư xây dựng mới trên nền các công trình cũ đã được phá bỏ của đô thị hiện hữu, là khu vực phát triển đô thị được đầu tư xây dựng nhằm nâng cao chất lượng đô thị hiện có nhưng không làm thay đổi cơ bản cấu trúc đô thị. Các khu vực đô thị được tái thiết cần phải có một sức hấp dẫn rõ ràng trong đô thị, bất kể chức năng cụ thể của từng khu vực. Quá trình tái thiết đô thị có thêm yếu tố sáng tạo sẽ đem đến bản sắc mới, thúc đẩy sự phát triển du lịch sáng tạo của các ngành công nghiệp văn hóa cho chính đô thị đó (Zhou và cộng sự, 2019).

Làng nghề truyền thống được hình thành từ cộng đồng cùng làm một nghề, có sự liên kết chặt chẽ theo lãnh thổ, huyết thống, kinh tế, văn hóa, tâm linh,... Làng nghề cũng chính là trung tâm sản xuất, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa, có cùng Tổ nghề, các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc (Bùi Văn Vượng, 2002).

Theo tiêu chí công nhận làng nghề truyền thông được quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), làng nghề truyền thống phải đạt các tiêu chí sau: 1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; 2) Có ít nhất 1 nghề truyền thống đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận. Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc, gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề; 3) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; 4) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Du lịch làng nghề là loại hình du lịch tìm hiểu văn hóa truyền thống, kết hợp mua sắm những hàng hóa đặc trưng của mỗi làng nghề truyền thống, kết hợp mua sắm những hàng hóa đặc trưng của mỗi làng nghề truyền thống. Hiện nay, có 2 mô hình làng nghề du lịch đang được đầu tư phát triển là: phát huy làng nghề truyền thống trên cơ sở vốn có tồn tại từ xa xưa của địa phương và các doanh nghiệp đầu tư xây dựng khu du lịch, đưa mô hình làng nghề vào đó rồi phục dựng không gian truyền thống để khai thác các giá trị sản phẩm văn hóa (Đoàn Mạnh Cương, 2020). Với những mô hình đó, làng nghề truyền thống đang kết hợp với hoạt động du lịch dưới một số hình thức như: 1) Làng nghề trực tiếp đón du khách tới tham quan và du lịch; 2) Làng nghề đón du khách thông qua các doanh nghiệp du lịch; 3) Làng nghề tiếp đón du khách thông qua các doanh nghiệp du lịch, đồng thời tiếp cận các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm.

KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA

Tại Trung Quốc

Trước những thách thức do quá trình đô thị hóa khiến nông nghiệp truyền thống và các làng nghề dần mai một, các làng truyền thống có giá trị lịch sử và văn hóa ở Trung Quốc ngày càng nhận được sự quan tâm. Hai trọng tâm chính trong quá trình này là bảo tồn di sản và kết nối phát triển du lịch. Nhiều nghiên cứu chuyên sâu về du lịch và phát triển làng nghề truyền thống đã đã chỉ ra rằng, nếu một làng truyền thống không được tái thiết, không đa dạng hóa chức năng và chỉ phụ thuộc vào nông nghiệp và không mở rộng sang nhiều hoạt động kinh tế - xã hội khác, thì nguy cơ mai một là rất lớn. Dựa trên sự phân bố không gian đa dạng và các loại hình làng khác nhau trong bối cảnh mới, nhiều nghiên cứu gần đây đã ngày càng tập trung vào việc phát triển các làng truyền thống trong không gian đô thị.

Cụ thể, nghiên cứu được thực hiện tại làng Viên Gia, tỉnh Thiểm Tây. Sự thành công của làng Viên Gia đến từ việc chuyển đổi mô hình từ sản xuất nông nghiệp đơn thuần sang du lịch trải nghiệm ẩm thực và văn hóa nông nghiệp. Mô hình này lấy cảm hứng sáng tạo từ mô hình của Julian Huxley được đề cập trong tác phẩm của Haggett (1975), trong đó xác định tái thiết đô thị trên nền tảng mối quan hệ giữa con người, văn hóa với môi trường thông qua 3 cấp độ: vật chất, xã hội và tinh thần. Mô hình này cũng phù hợp với tháp nhu cầu Maslow (Block, 2011), từ nhu cầu vật chất cơ bản đến khát vọng tinh thần cao hơn. Trong đó, tái thiết về cấp độ vật chất được hiểu là các hệ thống bề mặt (vật lý), chẳng hạn cảnh quan văn hóa mà con người có thể trải nghiệm. Cấp độ xã hội là hệ thống chuẩn mực, như luật lệ hoặc hướng dẫn mà con người có thể nhận biết, đồng thời đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Đặc biệt vai trò của giới nghệ nhân và tầng lớp tinh hoa địa phương là yếu tố dẫn dắt quan trọng trong quá trình tái thiết không gian làng nghề. Sự phát triển chủ yếu xuất phát từ mô hình trưởng làng, cấp quản lý làng/thôn/xã góp phần phục hồi và tái thiết làng thành công. Cấp độ tinh thần là hệ thống lý tưởng, như niềm tin, tinh hoa giá trị làng nghề.

Mô hình 3 cấp này phản ánh đầy đủ cách văn hóa được gìn giữ và bảo tồn trong lịch sử loài người và gần đây được sử dụng trong nghiên cứu du lịch làng nghề truyền thống. Đối với tái thiết về cấp độ vật chất, làng Viên Gia đã được chuyển đổi từ một ngôi làng chỉ có một con phố thành mạng lưới đường phố mới, trong đó kết hợp một biện pháp quan trọng (ở cấp độ 2 là xã hội), sử dụng nông sản địa phương như bột mì, đậu phụ và ớt cho các khách sạn gia đình. Trưởng làng đã tổ chức các xưởng sản xuất bột, yaourt, đậu phụ, ớt và các nguyên liệu thực phẩm khác ngay trong làng để tăng cường an ninh lương thực. Những hộ dân mở homestay và nhà hàng cần mua nguyên liệu từ các xưởng này. Dần dần, một bộ phận cư dân thành phố bị thu hút với cuộc sống ở làng; thay vì bán lúa, người làng bán món mì làm từ lúa ngay tại nhà mình, giữ lại toàn bộ giá trị gia tăng. Việc này đã làm tăng thu nhập của người dân từ hoạt động du lịch và không cần các dự án quy hoạch tái thiết làng, đô thị hóa quy mô quá lớn. Nhờ du lịch nông thôn, một số cư dân trẻ đã chọn ở lại để vừa hỗ trợ gia đình mình vừa đóng góp cho sự phát triển chung của cả làng. Ban đầu, làng Viên Gia phát triển một cách tự phát, sau đó dần dần thu hút thêm nhiều vốn đầu tư. Sự phát triển này nhận được sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền cao hơn, đồng thời thu hút nhiều tổ chức đến thăm quan, học hỏi.

Nghiên cứu chỉ ra rằng sự gắn kết cộng đồng, xã hội hình thành theo 2 cách: Thứ nhất, do cư dân chia sẻ nền tảng văn hóa và lối sống tương đồng đã tạo nên sự đồng cảm và gắn bó với nhau. Thứ hai, thông qua quá trình hợp tác nhằm đạt mục tiêu chung, các mối quan hệ cá nhân được hình thành và tình đoàn kết ngày càng được củng cố.

Hiện nay, làng Viên Gia đã thu hút hơn 2.000 người từ các làng lân cận hoặc từ những vùng xa đến làm việc và kinh doanh. Các hợp tác xã nông dân được đánh giá là phương thức công bằng trong việc phân chia lợi ích và thúc đẩy sự tham gia tích cực của cộng đồng, qua đó tạo ra các mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa các nguồn lực xã hội, văn hóa, kinh tế và môi trường. Mục tiêu phát triển du lịch đã góp phần tăng cường sự đoàn kết và bản sắc cộng đồng trong toàn thể cư dân của Làng. Người dân địa phương và người mới đến đều tích cực làm mới bản thân, tham gia vào quá trình tái thiết, phục hưng và xây dựng một cộng đồng làng nghề hài hòa mới.

Tại Malaysia

Kuala Terengganu - thành phố trung tâm đô thị của bang Terengganu - nằm tại khu vực Duyên hải phía Đông Malaysia, là cửa ngõ chính ra Biển Đông, từng có nhiều làng truyền thống (kampung). Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa trong 2 thập kỷ qua đã khiến số lượng làng truyền thống suy giảm mạnh. Kuala Terengganu dù có lịch sử lâu đời nhưng chỉ còn khu phố cổ rất nhỏ, dẫn đến du khách chỉ lưu trú trong thời gian ngắn.

Trước nguy cơ mai một các di sản hữu hình, di sản phi vật thể của làng nghề, mô hình “làng tái thiết”, tập trung phục dựng các ngôi nhà gỗ có giá trị kiến trúc lịch sử tại làng Losong Haji Su. Làng này ở ven sông, có bến sông, thuận tiện cho giao thông và phát triển du lịch với nghề truyền thống là làm bánh cá khô (fish cracker). Do kiến trúc nhà gỗ Mã Lai truyền thống có khả năng tháo rời và tái lắp (dạng lắp ghép, không dùng đinh), các ngôi nhà có giá trị lịch sử, kiến trúc đã được di dời và tái dựng tại một địa điểm tập trung, điều này tạo ra một không gian làng truyền thống hài hòa, nguyên gốc. Ý tưởng quy hoạch “làng tái thiết” gắn với du lịch là giữ nguyên không gian làng truyền thống, hạn chế xây dựng đường lớn; phân khu hợp lý giữa cư dân và du khách; khuyến khích các hoạt động kinh doanh nhỏ, homestay, dịch vụ ẩm thực, thủ công…; bảo tồn cảnh quan với cây ăn quả, lối đi nhỏ uốn lượn.

Quy trình thực hiện “làng tái thiết” được chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Xác định, thương lượng và ghi chép chi tiết các ngôi nhà có giá trị kiến trúc/lịch sử, bao gồm cả những nhà khiêm tốn nhưng mang ý nghĩa văn hóa.

Giai đoạn 2: Chọn địa điểm phù hợp, lập chính sách bảo tồn và cơ quan tư vấn để quản lý, đảm bảo tính nguyên gốc, quy hoạch và hướng dẫn tu bổ. Làng tái thiết này sẽ trở thành nơi “trú ẩn” cho các ngôi nhà được bảo tồn, đồng thời phát triển thương mại du lịch, biến di sản thành động lực phát triển kinh tế bền vững. Duy trì bố cục làng truyền thống, hạn chế hạ tầng giao thông mô lớn, ưu tiên không gian cho thương mại quy mô nhỏ và giao lưu cộng đồng.

XÂY DỰNG MÔ HÌNH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TẠI ĐÀ NẴNG

Tổng hợp các kinh nghiệm trên, mô hình tái thiết được đề xuất dựa trên 3 cấp độ (Hình) từ vật chất, xã hội và tinh thần. Mô hình này cũng phù hợp với tháp nhu cầu Maslow (Block, M.2011), từ nhu cầu vật chất cơ bản đến khát vọng tinh thần cao hơn. Tái thiết đô thị cho làng nghề truyền thống ở Đà Nẵng cần vượt ra khỏi phạm vi vật chất đơn thuần, tiến tới một mô hình phát triển đa chiều, cân bằng giữa bảo tồn giá trị văn hóa, di sản, cải thiện sinh kế và tăng cường năng lực cạnh tranh văn hóa của đô thị trong phát triển kinh tế.

Hình: Mô hình tái thiết đề xuất

Tái thiết đô thị trong phát triển du lịch làng nghề truyền thống: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho TP. Đà Nẵng(*)

Nguồn: Tác giả đề xuất

Tái thiết không nghĩa là “làm mới hoàn toàn” mà áp dụng triết lý “không thay đổi kiến trúc”, chỉ cải tạo hạ tầng tiện ích và không gian bên trong để đảm bảo tính xác thực (authenticity) của không gian làng xã, chuyển đổi mô hình làng nghề với sản phẩm làng nghề thành trung tâm kinh tế dựa trên một sản phẩm/kỹ năng đặc trưng để tăng thu nhập tại chỗ của cộng đồng, chú trọng thiết lập nền tảng quản trị đa bên (chính quyền, tập thể làng, doanh nghiệp nhỏ, cư dân mới) để phân chia lợi ích công bằng và điều phối dịch vụ. Từ các mô hình thành công, những bài học then chốt được rút ra cho chiến lược tái thiết đô thị và phát triển du lịch làng nghề tại Đà Nẵng bao gồm:

Một là, nhằm đảm bảo tính hữu cơ và phi xâm lấn, TP. Đà Nẵng cần áp dụng nguyên tắc tái thiết gia tăng với mô hình làng trong phố, tập trung nâng cấp hạ tầng đồng thời hạn chế thay đổi cấu trúc không gian truyền thống của làng. Mục tiêu là phát triển làng nghề thành “Bảo tàng sống”, nơi kết hợp sản xuất và trải nghiệm.

Hai là, xây dựng mô hình kinh tế cộng đồng nhằm kiện toàn giá trị cốt lõi văn hóa, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh tế. Tương tự như làng Viên Gia, các làng nghề tại Đà Nẵng (như Làng đá Non Nước, làng nghề Bánh tráng, làm nước mắm) cần tập trung vào việc bán trải nghiệm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao thay vì chỉ bán sản phẩm thô. Việc này phải do các đơn vị kinh tế tập thể làng (Village-owned entities) điều hành, đảm bảo lợi ích phân phối trực tiếp cho nghệ nhân và cư dân.

Ba là, tích hợp công nghiệp văn hóa sáng tạo thông qua sự phối hợp với các hiệp hội như nghệ nhân, nghệ sĩ và các nhà thiết kế để khôi phục di sản tri thức nghề. Khuyến khích các chương trình "Nghệ nhân" để hiện đại hóa mẫu mã, tạo ra các sản phẩm thủ công cao cấp và thu hút giới trẻ. Điều này vừa nâng cao nhận diện hình ảnh làng, sản phẩm làng nghề, vừa củng cố vốn xã hội bằng cách tích hợp cư dân cũ và mới vào chuỗi giá trị sáng tạo, từ đó tạo động lực nội sinh cho phát triển du lịch làng nghề bền vững.

KẾT LUẬN

Quá trình tái thiết đô thị nhằm phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại Đà Nẵng đòi hỏi một sự chuyển đổi chiến lược, từ tư duy đô thị hóa hiện đại sang mô hình tái tạo đô thị nhân văn và sáng tạo gắn với làng nghề truyền thống. Kinh nghiệm quốc tế từ Trung Quốc (làng Viên Gia) và Malaysia (làng Losong Haji Su) đã cung cấp luận cứ vững chắc cho việc đan xen tính tái thiết vào đổi mới đô thị, coi di sản văn hóa làng nghề là tài nguyên chiến lược.

TP. Đà Nẵng cần áp dụng mô hình phát triển đa cấp độ, ưu tiên tái thiết gia tăng ở cấp độ vật chất để bảo tồn sự chân thực của không gian. Cấp độ xã hội phải tập trung vào quản trị hợp tác cộng đồng, trao quyền cho cộng đồng làng nghề tự vận hành và phân phối lợi ích kinh tế, tránh sự xâm lấn của các nhà đầu tư bên ngoài.

Ở cấp độ tinh thần - kinh tế, việc khôi phục di sản tri thức nghề thông qua du lịch sáng tạo sẽ là chìa khóa để khai thác thế mạnh kinh tế biển và công nghiệp văn hóa. Qua đó, giúp các làng nghề như Non Nước, Cẩm Nê không chỉ được bảo tồn mà còn trở thành những trung tâm văn hóa - kinh tế độc đáo, nâng cao vị thế cạnh tranh bền vững cho đô thị Đà Nẵng.

(*) Đây là sản phẩm nhiệm vụ cấp Bộ năm 2025 - 2026: “Phát triển du lịch sáng tạo ở các làng nghề tại TP. Đà Nẵng” do TS. Trịnh Thị Thu là chủ nhiệm, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên là tổ chức chủ trì.

(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.

Tài liệu tham khảo:

1. Block, M. (2011). Maslow’s hierarchy of needs. In Encyclopedia of child behavior and development (pp. 913-915). Springer, Boston, MA.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006). Thông tư 116/2006/TT-BNN hướng dẫn Nghị định 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn.

3. Bùi Văn Vượng (2002). Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin.

4. Chính Phủ (2013). Nghị định 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị.

5. Đoàn Mạnh Cương (2020). Khai thác giá trị văn hóa làng nghề truyền thống trong việc phát triển du lịch cộng đồng, https://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/33040.

6. Gao, J., & Wu, B. (2017). Revitalizing traditional villages through rural tourism: A case study of Yuanjia Village, Shaanxi Province, China. Tourism management, 63, 223-233.

7. Haggett, P. (1975). Geography: A Modern Synthesis. Harper & Row. ISBN 9780060425760.

8. Lin, L., Xue, D., & Yu, Y. (2022). Reconfiguration of cultural resources for tourism in urban villages - a case study of huangpu ancient village in guangzhou. Land, 11(4), 563.

9. Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2010). Tái thiết bền vững đô thị - Dưới cách tiếp cận của Châu Á, Nxb The University of Tokyo Press.

10. Tan, Y. R. (2019). Reconstituted village: relocating traditional houses and transforming traditional Malay villages. Journal of Regional and City Planning, 30(3), 261-272.

11. Zhou, L., Tang, J., & Zou, R. (2019). Creative tourism, Social capital, and the Transformation of Urban Villages. Travel and Tourism Research Association: Advancing Tourism Research Globally, 39.

Ngày nhận bài: 10/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 19/10/2025; Ngày duyệt đăng: 24/10/2025