Chính sách tài chính phát triển kinh tế bạc: Kinh nghiệm quốc tế và bài học rút ra
ThS. Nguyễn Thị Thúy
Email: nguyenthithuy1@mof.gov.vn
TS. Trần Thị Quỳnh Hoa
Email: tranthiquynhhoa@mof.gov.vn
Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính
Tóm tắt
Trong những thập kỷ gần đây, già hóa dân số diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, thay vì coi đây là gánh nặng, nhiều quốc gia phát triển đã chuyển hướng sang tiếp cận theo hướng cơ hội, từ đó hình thành nên khái niệm “kinh tế bạc”. Nghiên cứu này tập trung phân tích kinh nghiệm các nước về chính sách tài chính phát triển kinh tế bạc, đồng thời rút ra bài học cho Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách tài chính, kinh tế bạc, già hóa dân số
Summary
In recent decades, population aging has accelerated significantly. However, instead of viewing it as a burden, many developed countries have shifted toward an opportunity-oriented approach, leading to the emergence of the concept of the “silver economy.” This study focuses on analyzing international experiences in financial policies that promote the development of the silver economy and draws lessons for Viet Nam.
Keywords: Financial policy, silver economy, population aging
XU HƯỚNG GIÀ HÓA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BẠC Ở CÁC NƯỚC
Khái niệm nền kinh tế bạc (Silver Economy) bắt nguồn từ thuật ngữ “thị trường bạc” tại Nhật Bản, quốc gia có tỷ lệ người trên 65 tuổi cao nhất trong những năm 1970, để chỉ thị trường cho người cao tuổi (NCT) thuộc các lĩnh vực đa dạng như y tế, ngân hàng, ô tô, năng lượng, nhà ở, viễn thông, giải trí và du lịch, cùng những lĩnh vực khác (theo Iberdrola, 2025). OECD (2014) đưa ra khái niệm kinh tế bạc là “một môi trường mà những người trên 60 tuổi tương tác và phát triển tại nơi làm việc, tham gia vào hoạt động sáng tạo, thúc đẩy thị trường với tư cách là người tiêu dùng và có cuộc sống lành mạnh, năng động, hiệu quả”.
Xu hướng NCT ngày càng gia tăng trong tổng dân số tại từng quốc gia và phạm vi toàn cầu từ các nước phát triển đến các quốc gia đang phát triển. Nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Đức, Pháp và Hàn Quốc đã tiên phong trong việc phát triển kinh tế bạc.
Nhật Bản là quốc gia có tỷ lệ NCT cao nhất thế giới cũng là quốc gia đi đầu về kinh tế bạc. Nhật Bản đã triển khai các chiến lược toàn diện, lâu dài và linh hoạt để thích ứng với già hóa dân số như: Chiến lược kéo dài tuổi thọ khỏe mạnh (Healthy Life Expectancy), Chiến lược Già hóa tại nơi sống (Aging in Place), Chiến lược hỗ trợ người chăm sóc và dịch vụ chăm sóc dài hạn, Chiến lược số hóa và công nghệ hóa dịch vụ NCT, Chiến lược phát triển kinh tế bạc… với mục tiêu phát triển các ngành kinh tế phục vụ nhu cầu NCT nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tại Đức, già hóa dân số là một vấn đề trọng yếu do tuổi thọ ngày càng cao và tỷ lệ sinh thấp kéo dài. Các chính sách, chiến lược của Đức tập trung vào mô hình “già hóa chủ động”, cụ thể như: đào tạo lại cho NCT để họ tiếp tục làm việc hoặc khởi nghiệp, thiết kế đô thị thân thiện (cải tạo hạ tầng giao thông, tiện ích công cộng cho NCT), hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực kinh tế bạc thông qua vốn mồi và ưu đãi thuế…
Tình trạng già hóa dân số tại Pháp đang diễn ra nhanh chóng và là một trong những vấn đề lớn quốc gia này. Để ứng phó với tình trạng già hóa dân số và kích thích nền kinh tế, Pháp đẩy mạnh tiêu dùng và du lịch cho NCT như các sản phẩm “thiết kế vì tuổi già”, cung cấp gói du lịch riêng cho NCT, bao gồm: bảo hiểm sức khỏe, hỗ trợ y tế, lịch trình phù hợp; tăng cường vai trò của bảo hiểm sức khỏe bổ sung…
Tại Trung Quốc, dân số đang già nhanh hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển khác. Các doanh nghiệp ở quy mô khác nhau đều đang chuyển hướng hoạt động tập trung đến đối tượng NCT. Nền kinh tế bạc có đóng góp mới vào tăng trưởng chất lượng cao của nền kinh tế. Quốc gia này tăng cường phát triển nền kinh tế bạc với nỗ lực tập trung chiến lược hướng đến NCT nhằm cải thiện cuộc sống và hướng đến phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) chất lượng ngày càng cao.
Nền kinh tế bạc đang phát triển mạnh mẽ tại Hàn Quốc khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp nhận ra khả năng tiếp thị nhiều hàng hoá và dịch vụ cho NCT. Thị trường dành cho các doanh nghiệp hướng đến nhóm khách hàng cao tuổi dự tính có giá trị 128 tỷ USD vào năm 2030, tăng gấp đôi so với năm 2020 (Kim Young-sun, 2024). Các doanh nghiệp cũng đã đầu tư xây dựng nhà ở và cơ sở chăm sóc cho NCT. Các doanh nghiệp nước này đã chuyển hướng sang nhận thức NCT là những người tiêu dùng năng động.
Nhằm đối mặt với sự thay đổi lớn trong cấu trúc dân số với tốc độ lão hóa dân số nhanh chóng, Singapore đã và đang phát triển mạnh mẽ nền kinh tế bạc với các loại hình doanh nghiệp đa dạng nhằm phục vụ nhu cầu của NCT. Nền kinh tế bạc tại Singapore được dự đoán sẽ đạt giá trị lên đến 72,4 tỷ USD vào năm 2025, thúc đẩy sự đổi mới và tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp trong và ngoài nước
Chính phủ Malaysia chủ trương xây dựng và thực hiện những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm tận dụng tối ưu nguồn nhân lực giàu kinh nghiệm. Đồng thời, quốc gia này cũng triển khai khai thác tiềm năng tiêu dùng và đầu tư liên quan đến NCT, từ việc chăm sóc sức khỏe đến du lịch và giải trí, các sản phẩm tài chính nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc tận dụng đáp ứng nhu cầu của NCT đang ngày càng tăng cao.
Trong bối cảnh đô thị hóa cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ cũng như dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tuổi thọ dân số Thái Lan ngày càng tăng lên đáng kể. Các xu hướng kinh doanh trong kinh tế bạc Thái Lan như chăm sóc sức khỏe, xây dựng nhà ở phù hợp với NCT, giải trí và phát triển bản thân, thiết bị điện tử, tư vấn pháp lý và các sản phẩm tài chính.
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BẠC
Ưu đãi thuế
Chính sách thuế đối với NCT ở các nước thường nhằm mục tiêu hỗ trợ tài chính, đảm bảo an sinh và khuyến khích tiếp tục tham gia lao động nếu còn khả năng; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề y tế, chăm sóc sức khỏe hoặc phát triển khoa học công nghệ tạo ra sản phẩm hỗ trợ NCT.
Thuế thu nhập cá nhân
Một số nước có ưu đãi thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cho bản thân NCT. Tại Mỹ, người trên 65 tuổi sẽ được khấu trừ thuế cao hơn khi tính thuế TNCN từ 3.750 đến 7.500 USD.
Tại Nhật Bản, công dân có mức thu nhập hàng năm trên 1,3 triệu yên đều phải nộp thuế TNCN. Tuy nhiên, đối với NCT sẽ có một số ưu đãi cụ thể như sau: Về phần giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế trên 70 tuổi và có vợ/chồng có mức thu nhập dưới 1,3 triệu yên/năm, sẽ được khấu trừ ở mức 480.000 yên. Đối với NCT có người phụ thuộc sẽ được khấu trừ thuế ở mức từ 480.000-580.000 yên. Ngoài ra, thuế thừa kế và quà tặng có điều chỉnh theo độ tuổi người thừa kế hoặc người tặng, ưu tiên hỗ trợ người lớn tuổi.
Tại Singapore, NCT không được miễn thuế hoàn toàn nhưng có chính sách giảm thuế cho người hỗ trợ cha mẹ cao tuổi. Cụ thể, người nộp thuế chăm sóc người phụ thuộc (bố mẹ, bố mẹ chồng/ vợ, bố mẹ nuôi…) từ 55 tuổi trở lên, có thu nhập dưới 8.000 đô la Singapore sẽ được khấu trừ thuế tùy từng trường hợp cụ thể.
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Tại Đức, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT có thể được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) nếu hoạt động của họ được công nhận là phi lợi nhuận và đáp ứng các điều kiện quy định trong luật thuế. Chính phủ Nhật Bản đã triển khai nhiều chính sách ưu đãi thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ chăm sóc NCT, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang bước vào giai đoạn “siêu già hóa”.
Tại Trung Quốc, các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc người già có thể được hưởng một số ưu đãi thuế TNDN, tùy thuộc vào loại hình hoạt động và khu vực đầu tư.
Tại Thái Lan, Chính phủ đã ban hành các chính sách ưu đãi thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp tuyển dụng người lao động cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên).
Ưu đãi thuế khác (giá trị gia tăng, xuất khẩu, nhập khẩu, đất đai…)
Tại Anh, nhiều thiết bị hỗ trợ dành cho người khuyết tật hoặc mắc bệnh mãn tính được áp dụng mức thuế giá trị gia tăng (GTGT) 0% khi đáp ứng các điều kiện nhất định.
Tại Đức, các dịch vụ chăm sóc dài hạn, phục hồi chức năng và viện dưỡng lão có thể được miễn thuế GTGT hoặc áp dụng mức thuế suất giảm, tùy thuộc vào loại hình dịch vụ và tổ chức cung cấp.
Tại Pháp, mức thuế GTGT thông thường là 20%, tuy nhiên có một số dịch vụ chăm sóc dịch vụ chăm sóc NCT và hỗ trợ sinh hoạt tại nhà được áp dụng mức thuế GTGT được áp dụng mức thuế 5,5%-10%.
Tại Nhật Bản, một số dịch vụ liên quan đến y tế, phục lợi cộng đồng, dịch vụ liên quan đến chăm sóc NCT, người tàn tật được miễn thuế tiêu dùng.
Chi ngân sách nhà nước
Chính sách hưu trí, bảo hiểm xã hội
Chính sách hưu trí đóng một vai trò trọng yếu trong việc đảm bảo an ninh tài chính cho NCT, đặc biệt trong bối cảnh già hoá dân số. Việc thiết kế một hệ thống hưu trí hiệu quả, đảm bảo an sinh và thu nhập của người lao động đến tuổi nghỉ hưu hiện tại và tương lai là một trọng trách của bất kỳ nhà nước nào trên thế giới nhằm đạt được nhiều mục tiêu không chỉ là cung cấp mức thu nhập tối thiểu cho người ở độ tuổi hưu trí mà còn giảm thiểu gánh nặng tài chính cho thế hệ tương lai cũng như việc phát triển hệ thống an sinh xã hội (ASXH) bền vững, ổn định xã hội, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, khuyến khích người lao động làm việc và tiết kiệm trong độ tuổi lao động. Ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng hệ thống hưu trí đa tầng (đa cột trụ) bao gồm các chính sách hưu trí khác nhau để đảm bảo tiếp cận đến hầu hết người lao động trong các thành phần kinh tế đa dạng, đáp ứng các nhu cầu khác biệt của người dân trong việc cung cấp chế độ hưu trí toàn diện cho mọi NCT trong xã hội. Nhiều nước áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng như các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Trung Quốc, Hàn Quốc…
Chi hỗ trợ y tế và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
NCT là đối tượng cần chăm sóc sức khỏe và có nhu cầu cao về dịch vụ y tế. Do đó, các nước đầu tư vào y tế, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ NCT nhằm cải thiện sức khỏe cho nhóm đối tượng này.
Về bảo hiểm y tế, Chính phủ Nhật Bản yêu cầu người dân tham gia 1 trong 2 loại hình bảo hiểm dài hạn: Bảo hiểm chăm sóc người trên 65 tuổi (phí bảo hiểm của đối tượng này tùy theo thu nhập của cá nhân, gia đình); Bảo hiểm chăm sóc người từ 40-64 tuổi (phí bảo hiểm được thu chung với bảo hiểm y tế). Khi một NCT được xác định cần chăm sóc, họ được tiếp cận các dịch vụ như: chăm sóc tại nhà, dịch vụ bán trú, chăm sóc tại viện dưỡng lão, hỗ trợ cải tạo nhà phù hợp với người già… Chính quyền địa phương đóng vai trò là bên bảo hiểm.
Về các chương trình và dịch vụ y tế, tại Canada, có chương trình y tế quốc gia (Medicare). Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Canada cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho người dân, đặc biệt là NCT. Mỗi tỉnh quản lý hệ thống chăm sóc sức khỏe riêng, đảm bảo rằng NCT có quyền tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng. Ngoài ra, Canada hỗ trợ NCT với các dịch vụ chăm sóc tại nhà, bao gồm chăm sóc y tế, hỗ trợ trong sinh hoạt hàng ngày và theo dõi sức khỏe.
Pháp đã mở rộng dịch vụ chăm sóc tại nhà, giúp NCT có thể nhận được sự hỗ trợ y tế mà không cần phải chuyển đến viện dưỡng lão. Ngoài ra, hệ thống cơ sở chăm sóc dài hạn được mở rộng, cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao.
Với nhu cầu chăm sóc y tế đặc biệt ngày càng cao của NCT, Singapore tập trung đổi mới trong lĩnh vực y tế, phát triển thương mại điện tử, áp dụng công nghệ tiên tiến cung cấp giải pháp chăm sóc sức khỏe thể hiện tính cá nhân hóa đa dạng.
Chính sách chi hỗ trợ người cao tuổi tiếp cận dịch vụ công, đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống
Nhiều quốc gia trên thế giới có các chương trình hỗ trợ tiền mặt cho NCT, dưới hình thức lương hưu xã hội (không đóng góp) hoặc trợ cấp tiền mặt có điều kiện nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu và giảm nghèo cho NCT.
Tại Canada, chương trình “Old Age Security” (OAS) là một trong những trụ cột chính của hệ thống thu nhập hưu trí công cộng tại Canada do chính phủ liên bang tài trợ từ nguồn thu thuế chung. Đây là khoản trợ cấp tiền mặt hàng tháng dành cho công dân hoặc thường trú nhân Canada từ 65 tuổi trở lên, không yêu cầu đã từng làm việc hoặc đóng góp vào hệ thống bảo hiểm xã hội.
Chương trình Benefício de Prestação Continuada (BPC) là một chính sách ASXH tại Brazil, nhằm hỗ trợ tài chính cho NCT (từ 65 tuổi trở lên) và người khuyết tật có thu nhập thấp. Người thụ hưởng nhận một mức lương tối thiểu hàng tháng khoảng R$1.509,00 (tương đương 150 USD), tùy thuộc vào mức lương tối thiểu.
Chương trình trợ cấp NCT (Old Age Allowance - OAA) tại Thái Lan là một chính sách ASXH nhằm hỗ trợ tài chính cho NCT (từ 60 tuổi trở lên) không nhận lương hưu từ các chương trình bảo hiểm xã hội khác. Trợ cấp này chủ yếu nhằm hỗ trợ những công dân cao tuổi có thu nhập thấp. Những người đã nhận lương hưu hoặc các hình thức hỗ trợ thu nhập thường xuyên khác từ chính phủ có thể không đủ điều kiện để nhận khoản trợ cấp này.
Chi đầu tư cơ sở hạ tầng như y tế, giao thông, cải thiện môi trường sống phù hợp với người cao tuổi
Pháp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường sống: (i) Thiết kế nhà ở phù hợp với NCT; (ii) Ứng dụng công nghệ trong chăm sóc NCT, áp dụng rộng rãi công nghệ thông minh; (iii) Hệ thống chăm sóc y tế từ xa giúp NCT tiếp cận các dịch vụ y tế mà không cần phải đến trực tiếp cơ sở y tế
Nhật Bản cải thiện hạ tầng công cộng, tạo ra không gian thân thiện với NCT.
Singapore cải thiện hạ tầng và dịch vụ công cộng, cụ thể như xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng, đảm bảo phương tiện giao thông công cộng, xây dựng hệ thống CNTT phù hợp với NCT.
Chi hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư một số lĩnh vực phục vụ nhu cầu của người cao tuổi, tuyển dụng lao động là người cao tuổi…
Tại Đức, Chính phủ áp dụng các ưu đãi cho doanh nghiệp khi tuyển dụng những người thất nghiệp từ 50 tuổi trở lên.
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều chính sách và kế hoạch nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế bạc, trong đó khuyến khích đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này. Các khu vực và thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải, và Quảng Châu đặt mục tiêu cụ thể phát triển sản phẩm và dịch vụ cho NCT.
Thái Lan thúc đẩy kinh doanh và khởi nghiệp, khuyến khích NCT tham gia khởi nghiệp thông qua hỗ trợ tài chính, đào tạo và tư vấn. Đầu tư vào phát triển công nghệ để cung cấp các sản phẩm hỗ trợ sinh hoạt, thiết bị y tế, và các ứng dụng giúp NCT tiếp cận dịch vụ và thông tin dễ dàng hơn. Chính phủ thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp công nghệ, trung tâm y tế và các trường đại học để phát triển các giải pháp sáng tạo trong chăm sóc NCT.
Chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển kinh tế bạc
KfW là ngân hàng phát triển của Đức, do nhà nước sở hữu, chuyên cung cấp các khoản vay ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức xã hội và các sáng kiến cộng đồng. Trong bối cảnh dân số già hóa, KfW có nhiều chương trình tài chính hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản phẩm, công nghệ và dịch vụ phù hợp với NCT. Bpifrance, ngân hàng đầu tư công của Pháp, cung cấp nhiều chương trình tài trợ tín dụng và bảo lãnh nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực thiết bị hỗ trợ, công nghệ sức khỏe và dịch vụ chăm sóc tại nhà.
Tại Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển Nhật Bản (DBJ) cung cấp các khoản vay ưu đãi lãi suất thấp cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực như chăm sóc NCT, thiết bị y tế, và công nghệ hỗ trợ.
Cơ quan xúc tiến đầu tư và công nghệ Hàn Quốc (KIAT) cung cấp các chương trình tài trợ và tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và công nghệ số trong chăm sóc NCT.
Hợp tác công - tư (PPP)
Bộ Nội vụ Trung Quốc cam kết hỗ trợ sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân (bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài) vào việc phát triển các dịch vụ chăm sóc NCT thông qua mô hình PPP. Bộ cũng khuyến khích mô hình xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT), trong đó các nhà dưỡng lão công được khuyến khích để khu vực tư nhân tham gia theo hình thức hợp đồng, hoạt động liên kết, liên doanh cổ phần và hợp tác chung. Các cơ quan chính phủ cũng được khuyến khích mua dịch vụ từ các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT tư nhân, các doanh nghiệp công được khuyến khích chuyển đổi các khu nghỉ dưỡng, trung tâm đào tạo, nhà nghỉ và nhà dưỡng lão thành các cơ sở dịch vụ chăm sóc NCT. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được khuyến khích mở rộng quy mô đầu tư chăm sóc NCT, phát triển nhượng quyền thương mại và xây dựng các thương hiệu chăm sóc NCT chất lượng tại Trung Quốc. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được phép tham gia vào quá trình tư nhân hóa và tái cơ cấu các nhà dưỡng lão công. Các biện pháp nêu trên đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của các nhà dưỡng lão.
BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
Một là, già hóa dân số không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội kinh tế, NCT là nguồn lực và thị trường tiềm năng.
Các quốc gia như Nhật Bản, Đức, Pháp, Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc… nhận diện rõ NCT không chỉ là đối tượng cần chăm sóc mà còn là một thị trường tiềm năng. Nhóm NCT thường có tích lũy tài chính, thời gian, kinh nghiệm sống và nhu cầu cao về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giải trí, nhà ở, du lịch, giáo dục, công nghệ... Điều này mở ra cơ hội thị trường rộng lớn cho các ngành nghề liên quan. Đồng thời, nếu có chính sách phù hợp, nhiều NCT có thể tiếp tục lao động, khởi nghiệp, tư vấn hoặc làm việc bán thời gian. Đây là lực lượng lao động giàu kinh nghiệm, nếu được hỗ trợ, họ có thể tiếp tục tạo ra giá trị KT-XH. Việc đầu tư vào kinh tế bạc là chiến lược song song để vừa đảm bảo ASXH, vừa thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Kết hợp kinh tế bạc và chuyển đổi số giúp tăng tính hiệu quả và giảm chi phí xã hội. Do đó, Việt Nam cần thay đổi tư duy từ “gánh nặng dân số già” sang “cơ hội phát triển từ dân số già”, tận dụng NCT cả về tiêu dùng lẫn lao động phù hợp.
Hai là, xây dựng chiến lược dài hạn và tổng thể.
Các nước thiết lập chiến lược phát triển dài hạn cho kinh tế bạc, bao gồm cả chính sách y tế, hạ tầng, đào tạo, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo cho NCT. Một chiến lược dài hạn và tổng thể giúp định hướng rõ ràng phát triển các lĩnh vực của nền kinh tế; huy động được nguồn lực đầu tư, đổi mới sáng tạo, hợp tác công - tư và tận dụng tối đa tiềm năng của NCT như nguồn nhân lực, tài chính…
Ba là, chính sách thuế linh hoạt và các ưu đãi thuế góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế bạc.
Một yếu tố quan trọng giúp các nước thúc đẩy nền kinh tế bạc là hệ thống chính sách tài chính - thuế khóa linh hoạt và ưu đãi. Tại Mỹ, Canada, Nhật Bản, NCT hoặc người chăm sóc họ được khấu trừ thuế TNCN. Nhiều nước miễn/giảm thuế TNDN cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ người già như viện dưỡng lão, công nghệ y tế, chăm sóc tại nhà... Đức, Pháp, Trung Quốc còn áp dụng thuế GTGT 0% hoặc mức thuế ưu đãi cho thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe NCT. Ngoài ra, một số nước có chính sách tín dụng ưu đãi, bảo lãnh tài chính, tài trợ khởi nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc NCT.
Bốn là, đầu tư vào hạ tầng và dịch vụ công thân thiện với NCT.
Hạ tầng không chỉ là nhà ở mà còn là hệ sinh thái sống. Các khu đô thị mới, đặc biệt là tại các đô thị vệ tinh hoặc vùng nông thôn phát triển nên có định hướng trở thành khu “thân thiện tuổi già” với đầy đủ dịch vụ, y tế, văn hóa, thể thao và không gian xanh. Nhiều quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Singapore đầu tư bài bản vào hạ tầng vật chất và dịch vụ công để NCT sống thuận tiện, an toàn, độc lập. Pháp và Nhật phát triển mô hình “thành phố tuổi già” với thiết kế đô thị toàn diện, nơi NCT sống gần các dịch vụ y tế, sinh hoạt cộng đồng, trung tâm chăm sóc và cơ sở giải trí.
Năm là, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực bạc.
Các quốc gia như Singapore, Hàn Quốc, Pháp xác định rõ nền kinh tế bạc là cơ hội để thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Nhiều startup công nghệ ra đời trong các lĩnh vực: thiết bị hỗ trợ di chuyển, AI theo dõi sức khỏe, thực phẩm chức năng, phần mềm tư vấn y tế, robot chăm sóc... Các chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ về vốn mồi, đào tạo, kết nối thị trường và cơ sở vật chất.
Sáu là, hệ thống an sinh xã hội và bảo hiểm toàn diện, linh hoạt.
Một nền kinh tế bạc không thể thiếu nền tảng ASXH bền vững. Hầu hết các quốc gia phát triển đều xây dựng hệ thống hưu trí đa tầng (Canada, Nhật, Trung Quốc...), bao gồm cả hưu trí công, hưu trí bắt buộc và tự nguyện. Bên cạnh đó, bảo hiểm chăm sóc dài hạn ngày càng phổ biến để đảm bảo NCT được chăm sóc khi mất khả năng tự chủ. Các mô hình bảo hiểm linh hoạt cho phép người dân chủ động lựa chọn mức đóng, hình thức hưởng, thời gian nhận lương hưu… giúp gia tăng độ bao phủ và giảm áp lực cho NSNN.
Bảy là, hợp tác công - tư để mở rộng quy mô và chất lượng dịch vụ.
Trung Quốc và Nhật Bản là một trong các quốc gia đi đầu trong việc khuyến khích hợp tác công - tư để phát triển dịch vụ chăm sóc NCT. Trung Quốc áp dụng mô hình cho thuê, quản lý, mua sắm và góp vốn giữa nhà nước và tư nhân trong xây dựng và vận hành nhà dưỡng lão. Mô hình này giúp tiết kiệm chi phí công, tăng tính chuyên nghiệp và đa dạng hóa dịch vụ. Đồng thời, khu vực tư nhân được tạo điều kiện tiếp cận đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế để đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc NCT.
Tóm lại, kinh tế bạc không chỉ là xu hướng kinh tế mà còn là tầm nhìn chiến lược để thích ứng với xã hội già hóa. Kinh nghiệm từ các nước cho thấy NCT không chỉ là đối tượng cần chăm sóc mà còn là một động lực tăng trưởng mới, một lực lượng lao động tiềm năng và một thị trường tiêu dùng đầy hứa hẹn.
Tài liệu tham khảo:
1. Ageing Asia (2020), World Ageing Festival.
2. Đoàn Văn Bình (2024). Nền kinh tế bạc - Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi mở cho Việt Nam.
3. EU and Oxford Economics (2015). The silver economy.
4. Hà Thị Đoan Trang (2020). Xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với chính sách tài hính. Đề tài khoa học cấp Viện
5. Iberdrola, 2025, Silver economy, older people will be the engine of the economy of the future, https://www.iberdrola.com/innovation/silver-economy
6. Minh Nguyệt (2023). Đón đầu “nền kinh tế bạc” bùng nổ. Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 49-2023.
7. Nguyễn Thị Lê Thu (2021). Chính sách tài chính khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư phát triển các mô hình chăm sóc NCT trong bối cảnh già hóa dân số.
8. Nguyễn Thị Thúy (2025). Kinh nghiệm quốc tế về kinh tế bạc - thích ứng và tận dụng cơ hội từ già hóa dân số và bài học rút ra.
9. OECD (2014), The Silver Economy as a Pathway for Growth: Insights from the OECD-GCOA Expert Consultation.
10. Trần Thị Ngọc Quyên, Ngô Hà Phương, Phạm Vân Nhi (2024). Phát huy vai trò của cộng đồng trong chăm sóc NCT và kinh nghiệm của một số quốc gia và bài học tham chiếu cho Việt Nam.
|
Ngày nhận bài: 20/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/10/2025; Ngày duyệt đăng: 20/10/2025 |

Bình luận