Ảnh hưởng của sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh đến thu hút FDI vào các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc(*)
ThS. Trần Hoàng Hà
Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Kinh doanh, Đại học Kinh tế quốc dân
Email: hatran@neu.edu.vn
PGS., TS. Ngô Thị Tuyết Mai
Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Kinh doanh, Đại học Kinh tế quốc dân
Email: ngothituyetmaineu@gmail.com
Tóm tắt
Sử dụng phương pháp định tính, dựa trên thống kê mô tả và tổng hợp dữ liệu từ các nguồn chính thống như Niên giám Thống kê và cấp tỉnh, Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cùng Tổng điều tra dân số và nhà ở, bài viết chỉ ra các vấn đề trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2015-2024; đồng thời đưa ra dự báo ban đầu về tác động của việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh từ ngày 1/7/2025. Kết quả cho thấy, khu vực này đang đối diện với mất cân đối thu hút FDI cả về quy mô, lĩnh vực và đối tác đầu tư. Bên cạnh những tác động tích cực, việc sắp xếp đơn vị hành chính có thể làm trầm trọng chênh lệch FDI nội vùng, gây khó khăn và chồng chéo về quản lý. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chính sách nhằm hướng đến thu hút FDI hài hòa hơn, trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: FDI, Trung du và miền núi phía Bắc, sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh
Summary
Using a qualitative approach based on descriptive statistics and data synthesized from official sources such as national and provincial statistical yearbooks, Provincial Competitiveness Index reports, and the Population and Housing Census, this paper identifies key issues in attracting foreign direct investment (FDI) in the Northern Midlands and Mountainous Region during the period 2015-2024. It also provides preliminary forecasts on the potential impacts of provincial administrative restructuring scheduled to take effect on July 1, 2025. The findings indicate significant imbalances in FDI attraction in terms of scale, sector, and investment partners across the region. While administrative restructuring may yield certain positive outcomes, it could also exacerbate intra-regional disparities in FDI and create challenges in governance and coordination. Based on these findings, the authors propose several solutions and policy recommendations aimed at achieving more balanced and sustainable FDI attraction in the current context.
Keywords: Foreign direct investment (FDI), Northern midlands and mountainous region, provincial administrative restructuring
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh là một cải cách lớn về tổ chức bộ máy hành chính nhằm tinh gọn, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực phát triển. Tuy nhiên, đối với vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) - nơi có đặc trưng địa hình phức tạp, hạ tầng hạn chế và năng lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có sự chênh lệch lớn - cải cách này có thể tạo ra cả cơ hội và thách thức. Trong bối cảnh các tỉnh TDMNPB đang nỗ lực thu hút FDI để thúc đẩy tăng trưởng và thu hẹp khoảng cách phát triển, việc đánh giá tác động tiềm tàng của sắp xếp đơn vị hành chíh cấp tỉnh đến thu hút FDI có ý nghĩa thiết thực, giúp định hình chính sách phát triển của Vùng sau năm 2025.
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
TDMNPB là một trong sáu vùng kinh tế - xã hội của Việt Nam, bao gồm 14 tỉnh trước sắp xếp là: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình.
TDMNPB chiếm khoảng 30% diện tích tự nhiên của Việt Nam, tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc và Tây Bắc, với Thủ đô Hà Nội và vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ở phía Đông Nam và với Lào ở phía Tây. Địa hình của Vùng có sự phân hóa mạnh với núi cao và hiểm trở, với nhiều dãy núi lớn, xen kẽ nhiều thung lũng hẹp và sông suối dày đặc ở miền núi phía Bắc. Trong khi đó, khu vực trung du tập trung đồi núi thấp, địa hình bậc thang thoải dần về phía ĐBSH, tạo điều kiện cho phát triển nông - lâm nghiệp, phát triển thủy điện, khoáng sản và du lịch sinh thái.
Vùng có sự đa dạng dân tộc, với cơ cấu dân cư khác biệt rõ rệt giữa các tỉnh. Ở Bắc Giang, Phú Thọ hay Thái Nguyên, người Kinh chiếm tỷ lệ áp đảo (70%-85% dân số), thuận lợi cho quá trình đô thị hóa và hình thành thị trường lao động công nghiệp. Ngược lại, các tỉnh núi cao lại quy tụ chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), như người Tày chiếm 40,8% ở Cao Bằng, người Mông chiếm 38,1% ở Điện Biên và 34,2% ở Hà Giang, người Thái chiếm 53,6% ở Sơn La. Mức thu nhập và chi phí lao động thấp có thể mang lại lợi thế cạnh tranh với FDI thâm dụng lao động. Mặc dù vậy, cần lưu ý rằng thu nhập thấp phần nào phản ánh năng suất và trình độ lao động hạn chế.
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO CÁC TỈNH TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Giai đoạn 2015-2024, vốn FDI vào Việt Nam luôn duy trì tính phân cực cao, 2/3 tổng FDI lũy kế tập trung ở Đông Nam Bộ và ĐBSH là vùng có ưu thế vượt trội về hạ tầng, thị trường và mạng lưới công nghiệp hỗ trợ (Hình 1).
Hình 1: Cơ cấu vốn FDI đăng ký phân theo vùng (lũy kế đến ngày 31/12/2015 và 31/12/2024)
Đơn vị tính: %
![]() |
Nguồn: Tác giả tính toán từ Niên giám Thống kê giai đoạn 2015-2024
Mặc dù thu hút FDI vào khu vực TDMNPB có xu hướng cải thiện nhẹ về cuối giai đoạn nghiên cứu, từ 4,74% (2015) lên 6,15% (2024), nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khiêm tốn. Mặc dù tốc độ tăng này chỉ xếp sau ĐBSH và Đồng bằng sông Cửu Long, sự phân hóa mạnh nội vùng lại đặt ra hoài nghi về tính bền vững trong thu hút FDI vào khu vực này.
Đến cuối năm 2024, TDMNPB thu hút hơn 30 tỷ USD, tập trung cao vào Bắc Giang và Thái Nguyên. Năm 2015, Thái Nguyên chiếm tới 53% FDI nội vùng, nhưng tỷ trọng giảm còn 36% năm 2024. Trong khi đó, Bắc Giang tăng tỷ trọng từ 18% năm 2015 lên 44% năm 2024, vượt Thái Nguyên từ năm 2022. Phú Thọ tăng tỷ trọng từ 4,7% lên khoảng 11,6%, trở thành địa phương xếp thứ ba trong vùng. Ngược lại, Hòa Bình và Lào Cai giữ tỷ trọng quanh mức 2%-4% và có xu hướng giảm dần, còn nhiều tỉnh khác gần như “trắng” trên bản đồ FDI (như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Điện Biên…).
Hình 2: Tỷ trọng FDI tại 14 tỉnh TDMNPB (lũy kế đến ngày 31/12/2015 và 31/12/2024)
![]() |
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2015 và 2024
Cơ cấu FDI theo đối tác có sự phân hóa rõ rệt. Theo Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, 2025), Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với tổng vốn đăng ký hơn 11,2 tỷ USD (507 dự án), tập trung gần như tuyệt đối tại Thái Nguyên (8,9 tỷ USD). Điều này gắn trực tiếp với Samsung - Tập đoàn đã đưa Thái Nguyên trở thành một cực tăng trưởng công nghiệp.
Ở các tỉnh có số dự án FDI ít ỏi, nhà đầu tư Trung Quốc là hiện diện nước ngoài duy nhất, phản ánh lợi thế cửa khẩu (Cao Bằng, Hà Giang). Cơ cấu FDI vào Lạng Sơn và Lào Cai cũng cho thấy sự ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư Trung Quốc.
Về cơ cấu theo ngành/lĩnh vực, dòng vốn FDI vào 14 tỉnh TDMNPB thể hiện sự tập trung gần như tuyệt đối vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) (chiếm khoảng 90% tổng vốn đăng ký và khoảng 85% dự án FDI). Kết quả này chủ yếu đến từ sự hiện diện của Samsung, Foxconn, Luxshare và mạng lưới các nhà cung ứng điện tử tại Thái Nguyên và Bắc Giang. Phú Thọ cũng là điểm sáng với hơn 2 tỷ USD và phân bổ cho 191 dự án CBCT.
Trong khi đó, các ngành còn lại chỉ chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Chẳng hạn, khai khoáng, gắn với lợi thế tự nhiên của một số tỉnh (Lào Cai, Sơn La), chỉ đạt 463 triệu USD với 14 dự án. Nông - lâm nghiệp và thủy sản, dù được coi là lợi thế truyền thống của vùng, chỉ thu hút 171 triệu USD với 17 dự án, và đa phần ở mức khai thác hoặc sơ chế (Chương Phượng, 2025). Sự hiện diện của FDI trong dịch vụ còn hạn chế và rải rác.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THU HÚT FDI VÀO CÁC TỈNH TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Thứ nhất, khoảng cách thu hút FDI giữa các tỉnh trong Vùng dần tăng lên. Tình trạng cạn kiệt quỹ đất, chi phí thuê đất và nhân công tăng cao tại Bắc Ninh, Hà Nội và Hải Phòng khiến FDI chuyển hướng sang các tỉnh lân cận như Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ, khiến tỷ trọng FDI vào TDMNPB có cải thiện. Tuy nhiên, FDI chỉ tập trung vào một vài tỉnh hạt nhân, còn nhiều tỉnh khác vẫn hạn chế (như Bắc Kạn, Cao Bằng, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La duy trì mức FDI dưới 1%, thậm chí không có thêm dự án mới trong cả giai đoạn).
Thứ hai, sự phụ thuộc vào một số ít nhà đầu tư nước ngoài lớn đem đến rủi ro cho tỉnh. Khi một hoặc một số ít nhà đầu tư lớn chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu hay việc làm của địa phương, tỉnh sẽ chịu ảnh hưởng mạnh nếu nhà đầu tư gặp khó khăn hoặc thay đổi chiến lược. Ví dụ, Nhà máy SEVT của Samsung tại Thái Nguyên sử dụng trên 60.000/100.000 lao động của Samsung tại Việt Nam, chiếm 41% lao động của tỉnh, cho thấy sự phụ thuộc việc làm vào một nhà đầu tư chủ lực (Samsung, 2016; Hoài Anh và Lăng Khoa, 2023). Ngoài ra, tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Nguyên năm 2023 đạt khoảng 27 tỷ USD thì 23 tỷ USD là đến từ SEVT (Tùng Lâm, 2023). Chính vì vậy, sự ổn định của Thái Nguyên sẽ gắn chặt với tình trạng và quyết định của Samsung. Tình huống tương tự xuất hiện ở Bắc Giang, với Foxconn, Luxshare, Hana Micron hiện chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2025 của tỉnh (Ngân Phát, 2025).
Thứ ba, cơ cấu FDI theo ngành tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và lệ thuộc vào các hoạt động sản xuất gia công giá trị thấp. Theo Ngô Thị Tuyết Mai (2013), FDI vào TDMNPB tập trung vào ngành CBCT, chiếm từ 70%-90%, trong khi dịch vụ chỉ chiếm 7%-27% và nông nghiệp khoảng 3%-4%. Sau hơn 10 năm, tỷ trọng FDI vào ngành CBCT vẫn lên tới 90%, trong khi các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng sạch, logistics hay du lịch chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Các tỉnh công nghiệp mới nổi như Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ và Hòa Bình thu hút chủ yếu các dự án CBCT. Tuy nhiên, các dự án FDI phần lớn vẫn mang tính gia công - lắp ráp, sử dụng công nghệ trung bình và giá trị nội địa thấp, nên chưa thực sự thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Ngược lại, các tỉnh miền núi cao hoặc biên giới lại thiên về khai khoáng, nông - lâm nghiệp và sản xuất nguyên liệu thô với lợi ích ngắn hạn về thu ngân sách và việc làm, nhưng tiềm ẩn nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và tăng trưởng thiếu bền vững.
Thứ tư, ô nhiễm môi trường và khai thác tài nguyên không bền vững hạn chế cơ hội thu hút FDI trong tương lai. Bối cảnh toàn cầu hóa cũng dẫn đến sự hình thành của các tiêu chuẩn quốc tế chung và các cam kết về môi trường, lao động và xanh hóa trong sản xuất - tiêu dùng. Theo đó, các tập đoàn đa quốc gia sẽ ưu tiên những quốc gia hay địa phương đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Tuy nhiên, FDI vào vùng chủ yếu là từ châu Á, còn các nhà đầu tư phương Tây, vốn gắn chặt với yêu cầu Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) chưa hiện diện rõ nét.
Nắm bắt xu hướng này, Liên đoàn Thương mại và Công nhiệp Việt Nam (VCCI) đã phát triển Chỉ số xanh cấp tỉnh (Provincial Green Index - PGI) để đánh giá và xếp hạng chất lượng quản trị môi trường. Bắc Giang, Thái Nguyên và Phú Thọ đều có PGI khá cao, đặc biệt ở thành phần tuân thủ tiêu chuẩn môi trường tối thiểu. Điều này phù hợp với đặc trưng FDI CBCT theo chiều dọc, khi các tập đoàn châu Á chỉ cần địa phương đáp ứng mức chuẩn môi trường cơ bản để hàng hóa có thể xuất khẩu.
Thứ năm, sự tham gia của DN nội địa còn hạn chế, đặc biệt ở TDMNPB. Liên kết giữa DN trong nước với khối FDI và mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu phản ánh năng lực hội nhập và hiệu quả lan tỏa của FDI đối với kinh tế địa phương. Theo PGS., TSKH. Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội DN Đầu tư nước ngoài, chỉ có khoảng 10% DN tư nhân trong nước đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các DN FDI đang hoạt động tại Việt Nam (Nguyễn Hòa, 2024). Với đặc thù TDMNPB, tỷ lệ này chắc chắn còn thấp hơn. Tại Thái Nguyên, DN nội địa phần lớn có năng lực hạn chế và liên kết lỏng lẻo với FDI (Tong, Kokko và Seric, 2019). Nghiên cứu của UNIDO (Tong và Seric, 2019) cũng ghi nhận số nhà cung cấp cấp 1 của Việt Nam rất ít và chủ yếu ở khâu giá trị thấp, trong khi các linh kiện cốt lõi được cung cấp bởi các nhà cung cấp ngoại đi theo Samsung.
Thứ sáu, hạn chế về quỹ đất và cơ sở hạ tầng khiến một số tỉnh khó tiếp cận với FDI. Một mặt, các tỉnh như Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên hiện chưa có tuyến cao tốc, mà dựa vào quốc lộ đồi núi với chi phí vận tải cao. Mặt khác, Bắc Giang, Thái Nguyên và Phú Thọ có các tuyến cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Bắc Giang - Lạng Sơn hay Hà Nội - Lào Cai, giúp rút ngắn thời gian vận tải, giảm chi phí logistics, mở ra khả năng kết nối trong nước và quốc tế, đặc biệt với thị trường Trung Quốc thông qua các cửa khẩu.
Bên cạnh hạ tầng giao thông, tính đến năm 2020, Vùng mới có 25/30 khu công nghiệp (KCN) đi vào hoạt động, với tỷ lệ lấp đầy thấp và chưa có mặt bằng sẵn sàng cũng như hạ tầng kỹ thuật yếu (Phạm Thị Mai Yến, 2021). Cao Bằng, Bắc Kạn và Lai Châu hầu như chưa có KCN nào hoàn thiện để tiếp nhận dự án FDI, còn KCN ở Yên Bái, Tuyên Quang và Sơn La thì nhỏ, phân tán và thiếu kết nối giao thông đồng bộ. Bên cạnh đó, hạ tầng ngoài KCN cho người lao động, như nhà ở, y tế, giáo dục… cũng là điều kiện cần để bảo đảm sự ổn định lâu dài.
Thứ bảy, nguồn nhân lực thiếu và yếu vẫn là bất lợi chung của nhiều tỉnh TDMNPB. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 và giữa kỳ 2024, các tỉnh TDMNPB chủ yếu đều xuất cư, đặc biệt ở các tỉnh miền núi (Bắc Kạn, Tuyên Quang, Cao Bằng có tỷ lệ xuất cư khoảng 18%-21%). Điều này cho thấy, áp lực di dân tại các địa phương có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp truyền thống.
Chất lượng lao động cũng ảnh hưởng đến cạnh tranh FDI. So sánh dựa trên tỷ lệ lao động trên 15 tuổi đã qua đào tạo, những tỉnh đạt tỷ lệ cao (Bắc Giang, Thái Nguyên và Phú Thọ đều đạt trên 30%) không chỉ hấp dẫn các dự án thâm dụng lao động, mà còn có tiềm năng thu hút các ngành có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao. Ngược lại, tỷ lệ thấp trong đào tạo khiến nhiều địa phương khó trở thành điểm đến hấp dẫn đối với FDI (Điện Biên và Sơn La xếp cuối vùng với tỷ lệ dưới 20%) (Tổng cục Thống kê, 2025).
Năng suất lao động của vùng cũng chỉ bằng 40%-60% bình quân cả nước. Thái Nguyễn và Bắc Giang có năng suất lao động dẫn đầu vùng. Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, từ 83,8 triệu đồng năm 2018 lên 181,5 triệu đồng năm 2023, gần gấp 2,2 lần sau 5 năm. Thực tế, việc Bắc Giang cũng là tỉnh dẫn đầu về FDI, góp phần nâng cao năng suất lao động, đồng thời năng suất cao tiếp tục củng cố sức hút FDI. Trong khi đó, nhiều tỉnh miền núi có mức năng suất lao động thấp, chưa vượt quá 100-120 triệu đồng năm 2023 (Hà Giang, Điện Biên, Sơn La) (Tổng cục Thống kê, 2025).
DỰ BÁO ẢNH HƯỞNG TỪ SẮP XẾP TỈNH NĂM 2025
Ảnh hưởng tích cực
Trước hết, quy mô hành chính sau sắp xếp sẽ lớn hơn về diện tích tự nhiên và dân số, qua đó tạo ra những thị trường địa phương rộng lớn hơn, giúp nhà đầu tư có điều kiện tiếp cận một không gian kinh tế thống nhất thay vì bị chia nhỏ bởi ranh giới hành chính. Ở các tỉnh miền núi, nơi mật độ dân số thấp và thị trường còn hạn chế, việc hộp nhất các tỉnh sẽ làm tăng quy mô thị trường nội vùng, cải thiện khả năng hấp thụ các dự án sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng.
Thứ hai, sắp xếp đơn vị hành chính được kỳ vọng tinh giản bộ máy quản lý, giảm bớt tầng nấc trung gian và chồng chéo trong thủ tục hành chính, theo đó có thể tăng tính hiệu quả và minh bạch trong quản lý đầu tư. Điều này sẽ giúp cải thiện chỉ số PCI và hình ảnh thể chế của Vùng, vốn là một yếu tố có tính quyết định trong lựa chọn địa điểm đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia.
Cuối cùng, việc sắp xếp cũng mở ra cơ hội thúc đẩy quy hoạch không gian phát triển mang tính tích hợp và liên kết Vùng. Các tỉnh sau sắp xếp thường có ranh giới tự nhiên liền kề, chia sẻ chung các trục giao thông, nguồn lực và chuỗi giá trị kinh tế. Điều này cho phép chính quyền tỉnh dễ dàng triển khai quy hoạch vùng đồng bộ, tránh được tình trạng mâu thuẫn, chồng lấn trong sử dụng đất, phát triển KCN hay đầu tư hạ tầng.
Một số thách thức
Một là, sắp xếp có thể làm trầm trọng hơn tình trạng bất bình đẳng thu hút FDI nội vùng. Trong khi Bắc Ninh - Bắc Giang có vốn FDI lũy kế hơn 44 tỷ USD và hệ sinh thái công nghiệp phát triển, thì nhiều tỉnh khác như Lai Châu, Điện Biên, Cao Bằng vẫn có mức FDI gần như bằng không. Khi các tỉnh này sắp xếp, dòng vốn có khả năng tụ vào các “điểm sáng” quen thuộc hoặc tràn từ Bắc Ninh sang Bắc Giang trong bối cảnh quỹ đất sạch hạn chế. Điều này có thể khiến một số tỉnh bị gạt ra khỏi bản đồ đầu tư nếu không có cơ chế phân bổ hiệu quả.
Hai là, bản thân việc mở rộng địa giới hành chính không đồng nghĩa với cải thiện năng lực thể chế hoặc khả năng hấp thụ FDI. Trong bối cảnh FDI ngày càng đòi hỏi môi trường đầu tư ổn định, minh bạch và năng động, thì các địa phương sau sắp xếp nếu không cải thiện được chất lượng quản trị sẽ khó thu hút được các nhà đầu tư chất lượng cao.
Ba là, quy mô tỉnh lớn hơn sau sắp xếp, dù mang lại lợi thế về thị trường và không gian, cũng tiềm ẩn những thách thức trong quản trị và quy hoạch đầu tư. Các tỉnh có diện tích rộng, địa hình phức tạp, dân cư phân bố thưa thớt, việc tổ chức xúc tiến đầu tư, giám sát thực thi dự án và bảo đảm hạ tầng đồng bộ có thể sẽ gặp nhiều khó khăn. Nguy cơ kéo dài khoảng cách nội tỉnh sau sắp xếp là điều hiện hữu, nhất là khi cơ sở hạ tầng giao thông và số hóa hành chính chưa đồng bộ giữa các khu vực.
Bốn là, việc hợp nhất các tỉnh có năng lực phát triển không tương đồng còn đặt ra thách thức về thiết kế chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp. Trong cùng một tỉnh mới, sự chênh lệch quá lớn về điều kiện tự nhiên, xã hội và hạ tầng giữa các khu vực có thể khiến chính quyền địa phương gặp khó khăn trong việc xác định chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư một cách công bằng và hiệu quả. Thiếu một khuôn khổ phân vùng đầu tư rõ ràng có thể dẫn đến nguy cơ FDI dồn vào trung tâm, bỏ quên vùng ngoại vi - điều vốn đã tồn tại trước sắp xếp.
ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO CÁC TỈNH TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC SAU SẮP XẾP
Về phía Nhà nước
Thứ nhất, sắp xếp các hội đồng vùng để thống nhất không gian điều phối. Sau khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, ranh giới vùng kinh tế - xã hội hiện nay có thể thay đổi, dẫn đến chồng lấn thẩm quyền giữa các hội đồng vùng. Thực tế, sắp xếp tỉnh có diễn ra giữa các tỉnh thuộc 2 vùng, như Bắc Giang - Bắc Ninh hay Phú Thọ - Hòa Bình - Vĩnh Phúc. Nếu vẫn duy trì 2 hệ thống hội đồng riêng biệt, sự phân mảnh trong quy hoạch và cơ chế ưu đãi sẽ cản trở lan tỏa đầu tư và giảm hiệu quả điều phối vùng.
Thứ hai, áp dụng cơ chế ưu đãi vượt trội cho các tỉnh còn khó khăn. Nhà nước cần thiết lập cơ chế ưu đãi vượt trội dành cho các địa phương có năng lực thu hút FDI thấp hoặc hạ tầng hạn chế. Những ưu đãi này có thể bao gồm miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu tiên hỗ trợ đầu tư hạ tầng hoặc chi phí giải phóng mặt bằng và phát triển khu KCN. Cách tiếp cận này nhằm bù đắp chênh lệch về điều kiện đầu tư, giúp các tỉnh khó khăn nhanh chóng hội nhập với không gian kinh tế vùng.
Về phía các tỉnh
Một là, thúc đẩy cơ chế liên kết - lan tỏa và chia sẻ nguồn lực giữa các tỉnh trong vùng. Các tỉnh TDMNPB cần hình thành cơ chế liên kết - lan tỏa dựa trên hợp tác, hỗ trợ và chia sẻ nguồn lực. Tỉnh có nền công nghiệp và hạ tầng phát triển hơn (Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ) cần đóng vai trò lan tỏa, hỗ trợ các tỉnh có điều kiện hạn chế hơn về kỹ thuật, nhân lực và kinh nghiệm quản lý, qua đó tạo mạng lưới hợp tác vùng thống nhất. Cùng với đó, nên thành lập quỹ hỗ trợ phát triển Vùng nhằm tài trợ cho hạ tầng công nghiệp, đào tạo nhân lực và xúc tiến đầu tư tại các tỉnh khó khăn, được điều phối bởi Hội đồng Vùng hướng tới thúc đẩy thu hút FDI hài hòa.
Hai là, đầu tư phát triển nhân lực đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI và sự chuyển dịch chuỗi cung ứng. Trước hết, cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực hoạch định, thẩm định, giám sát và điều phối dự án FDI, qua đó cải thiện chất lượng hành chính công và giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư. Song song, các tỉnh phải đẩy mạnh đào tạo nghề và kỹ năng lao động gắn với nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp FDI. Điều này sẽ giúp các địa phương thích ứng linh hoạt với sự tái cấu trúc chuỗi giá trị hoặc tụt hậu khi doanh nghiệp FDI chuyển hướng đầu tư.
Ba là, đẩy mạnh số hóa trong quản trị địa phương và cải thiện thể chế Vùng. Đẩy mạnh chuyển đổi số giúp nâng cao hiệu quả điều hành, minh bạch hóa thông tin và tạo nền tảng thể chế thống nhất cho thu hút FDI. Liên thông dữ liệu về đất đai, quy hoạch… sẽ giúp các tỉnh chia sẻ thông tin kịp thời, tránh chồng chéo hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong cấp phép đầu tư. Đồng thời, cần hoàn thiện các khía cạnh thể chế địa phương để hình thành môi trường đầu tư thuận lợi.
Bốn là, ban hành cơ chế ưu đãi phân tầng nội tỉnh sau sắp xếp. Sắp xếp có thể diễn ra giữa các tỉnh có mức phát triển và năng lực thu hút FDI rất khác nhau (ví dụ như Thái Nguyên và Bắc Kạn). Nếu áp dụng cùng một khung ưu đãi đầu tư cho toàn tỉnh mới, các khu vực miền núi, hạ tầng kém phát triển (như Bắc Kạn) sẽ khó cạnh tranh với trung tâm công nghiệp (Thái Nguyên). Chính vì vậy, việc ban hành cơ chế ưu đãi phân tầng nội tỉnh là cần thiết để bảo đảm công bằng và duy trì động lực phát triển cho các khu vực yếu hơn, giúp thu hút FDI lan tỏa đều hơn trong không gian tỉnh mới.
(*) Nghiên cứu sử dụng các số liệu trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15
Tài liệu tham khảo:
1. Chương Phượng(2025). Nâng giá trị nông sản vùng Tây Bắc: Tập trung chế biến sâu. truy cập từ https://vneconomy.vn/nang-gia-tri-nong-san-vung-tay-bac-tap-trung-vao-che-bien-sau.htm
2. Hoài Anh & Lăng Khoa (2023). Samsung Electronics Việt Nam - Thái Nguyên đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba, truy cập từ https://baothainguyen.vn/kinh-te/doanh-nghiep-doanh-nhan/202304/samsung-electronics-viet-nam-thai-nguyen-don-nhan-huan-chuong-lao-dong-hang-ba-0e60fcb/ .
3. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2024). Báo cáo chỉ số PCI và PGI năm 2023.
4. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2025). Báo cáo chỉ số PCI năm 2024.
5. Ngân Phát (2025). Ông lớn Foxconn, Hana Micron, Luxshare chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2025 của Bắc Giang. truy cập từ https://nguoiquansat.vn/ong-lon-foxconn-hana-micron-luxshare-chiem-hon-50-kim-ngach-xuat-khau-thang-1-2025-cua-bac-giang-196698.html
6. Ngô Thị Tuyết Mai (2013). FDI tại các tỉnh miền núi - trung du phía Bắc: Thực trạng và những vấn đề cấp bách đang đặt ra. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 191(11).
7. Nguyễn Hòa (2024). Tăng liên kết giữa FDI và doanh nghiệp nội địa để phát triển công nghiệp hỗ trợ, truy cập từ https://congthuong.vn/tang-lien-ket-giua-fdi-va-doanh-nghiep-noi-dia-de-phat-trien-cong-nghiep-ho-tro-359286.html
8. Phạm Thị Mai Yến (2021). Thực trạng phát triển khu, cụm công nghiệp tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi phía Bắc Việt Nam, truy cập từ https://tapchicongthuong.vn/thuc-trang-phat-trien-khu--cum-cong-nghiep-tai-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-phia-bac-viet-nam-83525.htm.
9. Samsung (2016). Preparing healthy meals for 60,000 at Samsung’s biggest mobile factory in the world. truy cập từ https://news.samsung.com/global/preparing-healthy-meals-for-60000-at-samsungs-biggest-mobile-factory-in-the-world
10. Tổng cục Thống kê (2016). Niên giám Thống kê Việt Nam 2015, Nxb Thống kê.
11. Tổng cục Thống kê (2019). Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.
12. Tổng cục Thống kê (2023). Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2022, Nxb. Thống kê.
13. Tổng cục Thống kê (2024). Tổng điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2024.
14. Tổng cục Thống kê (2025). Niên giám Thống kê Việt Nam 2025, Nxb Thống kê.
15. Tong. Yee-Siong, Kokko. Ari & Seric. Adnan (2019). Linking FDI and local firms for global value chain upgrading: Policy lessons from Samsung mobile phone production in Viet Nam. Working Paper 5/2019, UNIDO.
16. Tùng Lâm (2023). Thái Nguyên: Tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 27,1 tỷ USD, truy cập từ https://baothainguyen.vn/kinh-te/202312/thai-nguyen-tong-kim-ngach-hang-hoa-xuat-khau-uoc-dat-271-ty-usd-7cd120c/.
| Ngày nhận bài: 10/10/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/10/2025; Ngày duyệt đăng: 23/10/2025 |



Bình luận