TS. Lê Bá Tâm

Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Email: lebatamktct@gmail.com

Tóm tắt

Trên cơ sở phân tích quá trình tái cơ cấu kinh tế Hà Nội sau mở rộng theo Nghị quyết 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính TP. Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, bài viết làm rõ những chuyển biến tích cực, như: mở rộng không gian phát triển, lan tỏa công nghiệp hóa về vùng ven cũng như những hạn chế kéo dài, như: bất cân xứng trung tâm - ngoại vi, thiếu liên kết quy hoạch, cơ chế điều phối vùng yếu. Thực tiễn Hà Nội cho thấy, mở rộng địa giới hành chính không đủ để tạo tái cơ cấu hiệu quả nếu thiếu thiết chế phát triển phù hợp. Từ đó, bài viết rút ra bài học cần gắn kết giữa mở rộng không gian với tái thiết kinh tế, dựa trên quy hoạch tích hợp, phân bổ nguồn lực hợp lý và điều phối thể chế đồng bộ.

Từ khóa: Tái cơ cấu kinh tế, Hà Nội, bài học kinh nghiệm

Summary

Based on an analysis of Ha Noi's economic restructuring process following its administrative expansion under Resolution No. 15/2008/QH12 dated May 29, 2008, approved by the National Assembly on the adjustment of Ha Noi's administrative boundaries and relevant provinces, the article highlights several positive transformations, including the expansion of development space and the diffusion of industrialization to peripheral areas. At the same time, it identifies limitations such as the core-periphery imbalance, weak spatial planning integration, and ineffective regional coordination mechanisms. The case of Ha Noi demonstrates that administrative boundary expansion alone is insufficient to ensure effective economic restructuring in the absence of appropriate development institutions. From there, the article draws the lesson that it is necessary to link spatial expansion with economic reconstruction, based on integrated planning, rational resource allocation, and coordinated institutional mechanisms.

Keywords: Economic restructuring, Ha Noi, practical lesson

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tái cơ cấu kinh tế đô thị là quá trình tổ chức lại cấu trúc ngành nghề, phân bổ nguồn lực và điều chỉnh quan hệ sản xuất trong không gian đô thị nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng tăng trưởng. Quá trình này thường gắn liền với sự dịch chuyển từ nông nghiệp - công nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ, từ công nghiệp truyền thống sang công nghiệp công nghệ cao; đồng thời hình thành các trung tâm tăng trưởng mới, phân tầng chức năng không gian và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Tái cơ cấu kinh tế đô thị mở rộng được luận giải trong các lý thuyết kinh tế. Clark (1940), Kuznets (1955) và Chenery và Syrquin (1975) cho rằng, phát triển gắn với chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và tái tổ chức không gian sản xuất. Krugman (1991) nhấn mạnh vai trò của chi phí vận chuyển, kết nối hạ tầng và tích tụ nguồn lực trong phân bố hoạt động kinh tế. Scott và Storper (2003) đề xuất thiết chế điều phối vùng nhằm tích hợp phát triển giữa trung tâm và vùng ven, khắc phục phân mảnh không gian và nâng cao hiệu quả đầu tư.

Việc mở rộng địa giới hành chính Hà Nội năm 2008 (sáp nhập Hà Tây, huyện Mê Linh - Vĩnh Phúc và một phần huyện Lương Sơn - Hòa Bình) được kỳ vọng tạo không gian kinh tế tích hợp. Tuy nhiên, sau hơn 15 năm, khoảng cách phát triển giữa nội đô và các vùng sáp nhập vẫn đáng kể. Cụ thể, nội đô phát triển dịch vụ và công nghệ cao, trong khi nhiều khu vực thuộc Hà Tây cũ vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp và công nghiệp thâm dụng lao động. Thực tiễn này cho thấy, điều chỉnh không gian hành chính chỉ hiệu quả khi đi kèm với cải cách thể chế, phân bổ nguồn lực hợp lý và xây dựng cơ chế liên kết vùng chặt chẽ. Đây là bài học quan trọng cho các địa phương trong việc định hình chiến lược phát triển vùng thời kỳ mới.

KẾT QUẢ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ HÀ NỘI THEO KHÔNG GIAN KINH TẾ MỞ RỘNG

Cơ cấu ngành chuyển dịch tích cực theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp

Trước năm 2008, kinh tế Hà Nội chủ yếu phát triển tại khu vực nội đô với lợi thế về dịch vụ công, tài chính và giáo dục - đào tạo; không gian phát triển bị giới hạn trong 921,8 km² (Nguyễn Văn Hải, Lưu Quang Huy, 2025). Trong khi đó, Hà Tây mang tính nông nghiệp rõ nét, với tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp trên 20% tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), tập trung vào trồng trọt và nghề truyền thống. Theo Niên giám Thống kê Hà Nội, sau sáp nhập, cơ cấu GRDP chuyển dịch mạnh: nông nghiệp giảm từ 8,4% năm 2008 còn 2,3% năm 2023; công nghiệp - xây dựng giảm từ 36,1% xuống 25%; dịch vụ tăng từ 55,5% lên 65%. Sự sụt giảm hơn 6 điểm phần trăm của nông nghiệp cho thấy, quá trình phi nông nghiệp hóa mạnh mẽ, đặc biệt tại các huyện, như: Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai và Phú Xuyên.

Chuyển dịch lao động nhằm khai thác hiệu quả lực lượng lao động

Theo Niên giám Thống kê Hà Nội, năm 2023, Hà Nội có khoảng 4,4 triệu lao động. Tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh từ 32% năm 2008 còn 17,5%; lao động công nghiệp - xây dựng chiếm 30,5%, dịch vụ trên 52%. Lao động tại các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Thanh Oai, Gia Lâm chuyển dịch nhanh nhờ phát triển các khu, cụm công nghiệp - dịch vụ, như: Hòa Lạc, Phú Nghĩa, Ngọc Hồi, Cầu Gáo. Dù có trên 300 cơ sở đào tạo nghề (40% ở ngoại thành), nhưng phân bổ lao động vẫn chênh lệch. Hoài Đức, Đông Anh, Gia Lâm có trên 80% lao động phi nông nghiệp, trong khi Mỹ Đức, Ba Vì, Ứng Hòa còn trên 40% lao động nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức. Thu nhập bình quân dao động từ 70-75 triệu đồng/năm ở các huyện đô thị hóa nhưng chỉ đạt 45-50 triệu đồng ở vùng xa. Chuyển dịch cơ cấu lao động đang góp phần hiện đại hóa sản xuất, song cần tiếp tục thúc đẩy qua kết nối cung - cầu lao động và hỗ trợ khu vực nông thôn.

Đột phá hạ tầng tạo động lực phát triển không gian kinh tế mới

Tái cơ cấu kinh tế Thủ đô sau sáp nhập được dẫn dắt bởi 3 trụ cột: quy hoạch vùng, đầu tư hạ tầng và thu hút nguồn lực. Quy hoạch vùng Thủ đô (điều chỉnh vào các năm 2016, 2022) xác lập cấu trúc đô thị mở rộng, hành lang kinh tế - sinh thái, thúc đẩy công nghiệp công nghệ cao và logistics. Theo Niên giám Thống kê Hà Nội năm 2023, với diện tích tăng từ 921,8 km² lên 3.344 km², dân số tăng gần 4 triệu người, Hà Nội đã huy động trên 230.000 tỷ đồng vốn đầu tư công giai đoạn 2008-2023, trong đó 45% dành cho vùng ngoại thành. Các công trình như: Đại lộ Thăng Long, vành đai 3, 3.5, 4, cầu Nhật Tân, Vĩnh Tuy và đường sắt đô thị đã nâng cao liên kết vùng, định hình hành lang công nghiệp - dịch vụ. Đến năm 2023, 85% đường giao thông ngoại thành được cứng hóa (so với dưới 50% năm 2008), 98% xã có điện ổn định, 92% dân số dùng nước sạch đô thị. Các huyện như: Hoài Đức, Gia Lâm, Thanh Trì có tỷ lệ đô thị hóa trên 60%, thu hút FDI, hình thành nhiều khu đô thị, cụm công nghiệp. Tuy nhiên, Ba Vì, Mỹ Đức, Ứng Hòa vẫn phát triển chậm do hạ tầng yếu và thiếu liên kết. Hạ tầng đã trở thành động lực then chốt cho tái cơ cấu không gian phát triển, nhưng cần giải pháp đồng bộ để thu hẹp chênh lệch vùng.

Thay đổi phân bố đầu tư và đóng góp của các khu vực cho phát triển Thủ đô

Hơn 15 năm sau mở rộng địa giới, Hà Nội ghi nhận sự dịch chuyển rõ nét về dòng vốn và đóng góp kinh tế. Các vùng ven như Hoài Đức, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì trở thành cực tăng trưởng mới, với đầu tư công tăng 12%-15%/năm. Hoài Đức đạt đô thị hóa trên 65%, Đông Anh thu hút hàng trăm triệu USD vào công nghiệp sạch và logistics. Khu Công nghệ cao Hòa Lạc đóng vai trò hạt nhân đổi mới sáng tạo, thu hút hơn 30.000 tỷ đồng, thúc đẩy ngành công nghệ thông tin - viễn thông tăng trưởng 15%-20%/năm. Trong khi đó, Ba Vì, Mỹ Đức, Phú Xuyên phát triển chậm, nông nghiệp còn chiếm trên 30% GRDP, thu nhập bình quân chỉ 45-50 triệu đồng/năm, lao động kỹ năng thấp vẫn phổ biến (Hồng Anh, 2024). Tuy nhiên, đây là vùng dự trữ phát triển chiến lược với tiềm năng về nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái và văn hóa bản địa. Hà Nội đang hình thành cấu trúc vùng gồm: lõi trung tâm; vành đai công nghiệp - dịch vụ phía Tây, Bắc; vùng sinh thái - nông nghiệp phía Nam, Tây Nam. Phát huy hiệu quả không gian này đòi hỏi điều chỉnh đầu tư theo hướng cân bằng, tăng cường liên kết và tính bổ trợ giữa các vùng.

NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU KINH TẾ HÀ NỘI

Việc mở rộng địa giới hành chính theo Nghị quyết số 15/2008/QH12 là bước ngoặt chiến lược nhằm kiến tạo không gian phát triển cân bằng và bền vững cho Thủ đô. Tuy nhiên, sau hơn 15 năm triển khai, quá trình tái cơ cấu kinh tế theo mô hình vùng tích hợp vẫn bộc lộ nhiều hạn chế về chất lượng, hiệu quả và tính liên kết, thể hiện trên các phương diện sau:

Phân hóa phát triển ngày càng rõ nét

Khoảng cách giữa khu vực trung tâm và vùng sáp nhập ngày càng gia tăng, thể hiện qua chỉ số đô thị hóa, thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Năm 2023, các huyện như Hoài Đức, Đông Anh đạt tỷ lệ đô thị hóa trên 60%, trong khi Ba Vì, Mỹ Đức chỉ dưới 30%, thấp hơn mức trung bình cả nước (41,7%). Chênh lệch thu nhập giữa các huyện ngoại thành có thể lên tới 30 triệu đồng/năm (Cục Thống kê, nay là Thống kê TP. Hà Nội, 2023). Nguyên nhân chủ yếu là sự bất bình đẳng về hạ tầng, khả năng tiếp cận vốn và chất lượng lao động. Những khu vực được hưởng lợi từ các tuyến giao thông huyết mạch (như Hoài Đức, Thạch Thất) dễ dàng chuyển dịch cơ cấu ngành, trong khi vùng ven (như Ứng Hòa, Mỹ Đức) vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp manh mún, hiệu quả thấp.

Tích hợp kinh tế và chuỗi giá trị còn lỏng lẻo

Mặc dù địa giới đã mở rộng, sự liên thông kinh tế giữa trung tâm và vùng ven chưa được thiết lập hiệu quả. Cơ cấu ngành tại nhiều huyện vẫn mang đặc trưng truyền thống, chưa được kết nối vào chuỗi cung ứng đô thị hiện đại. Khoảng 40% doanh nghiệp vùng sáp nhập vẫn có quy mô nhỏ lẻ, công nghệ thấp, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực phi chính thức. Hơn 55% lao động tại các huyện như Chương Mỹ, Ứng Hòa vẫn làm nông nghiệp hoặc nghề thủ công, chưa được tái đào tạo để chuyển sang lĩnh vực có giá trị gia tăng cao. Các cụm công nghiệp vệ tinh chưa tạo được mối liên kết chuỗi với vùng lõi, làm hạn chế vai trò lan tỏa của các khu sản xuất (Sở Kế hoạch và Đầu tư, nay là Sở Tài chính Hà Nội, 2023).

Thiếu thiết chế điều phối và quy hoạch tích hợp vùng

Việc mở rộng hành chính không đi kèm với một thể chế điều phối vùng đủ mạnh đã dẫn tới sự thiếu đồng bộ trong quy hoạch và đầu tư. Quy hoạch chồng chéo, thiếu liên kết giữa các lĩnh vực đô thị, giao thông, công nghiệp và nông nghiệp tiếp tục tồn tại, khiến nhiều huyện sau sáp nhập không thể hội nhập vào chiến lược phát triển chung của Thủ đô. Thiếu cơ chế phối hợp liên ngành và liên vùng khiến các dự án quy mô lớn, đặc biệt tại vùng biên của không gian mở rộng, khó đạt hiệu quả kỳ vọng, kéo dài thời gian thực hiện và phát sinh chi phí cơ hội phát triển. Trong khi đó, các chương trình đầu tư lại bị phân mảnh theo ngành dọc, thiếu tính liên kết chiến lược, làm giảm hiệu suất sử dụng nguồn lực và khả năng lan tỏa phát triển trong không gian liên huyện - liên vùng (Sở Tài nguyên và Môi trường, nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, 2023).

Phân bổ nguồn lực và chính sách đầu tư còn bất hợp lý

Mặc dù Hà Nội đã dành tới 45% vốn đầu tư công cho các khu vực sáp nhập, nhưng cơ cấu đầu tư còn mất cân đối, chủ yếu tập trung vào hạ tầng kỹ thuật cơ bản, trong khi thiếu các cơ chế hỗ trợ đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất hoặc nâng cao năng lực con người - những yếu tố quyết định chuyển đổi mô hình tăng trưởng dài hạn. Chính sách ưu đãi đầu tư còn nghiêng về các khu công nghiệp quy mô lớn như Hòa Lạc, bỏ sót các cụm công nghiệp nhỏ và làng nghề truyền thống có khả năng tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Phân bổ ngân sách vẫn theo đơn vị hành chính, chưa dựa vào năng lực tiếp nhận và mức độ sẵn sàng phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến tình trạng các huyện có tiềm năng lại thiếu nguồn lực, trong khi các khu vực kém hiệu quả lại khó rút bớt đầu tư để tái cơ cấu.

Chuyển dịch lao động thiếu định hướng dài hạn

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tại vùng sáp nhập tăng nhanh, phản ánh xu thế đô thị hóa và phi nông nghiệp hóa, nhưng phần lớn vẫn hoạt động trong khu vực phi chính thức, thiếu an sinh và kỹ năng nghề (ILO Việt Nam, 2023). Quá trình chuyển đổi ngành nghề chủ yếu mang tính tự phát dưới tác động của thay đổi không gian sống, thay vì được dẫn dắt bởi các chiến lược đào tạo nghề, phát triển cụm ngành hoặc điều tiết cung - cầu lao động khu vực. Điều này làm gia tăng tỷ lệ lao động có thu nhập thấp, bấp bênh và không có cơ hội học tập suốt đời - làm suy yếu nền tảng tích lũy, tiêu dùng và động lực phát triển nội sinh của khu vực ngoại thành (VCCI, 2022-2023). Ngoài ra, tình trạng thiếu liên kết giữa đào tạo nghề, hệ thống giáo dục và nhu cầu doanh nghiệp khiến năng lực chuyển đổi ngành nghề bị giới hạn, tạo ra rào cản đối với mục tiêu phát triển kinh tế tri thức và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN SẮP XẾP MỞ RỘNG KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN

Việc mở rộng địa giới hành chính là xu thế tất yếu trong đô thị hóa và hội nhập, giúp tạo không gian phát triển mới và nâng cao năng lực cạnh tranh cho đô thị trung tâm. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ Hà Nội cho thấy, mở rộng địa giới không tự động mang lại hiệu quả nếu thiếu chiến lược đồng bộ và thể chế vững chắc. Sau hơn một thập kỷ, Hà Nội đã đạt nhiều thành tựu, nhưng cũng bộc lộ bất cập trong điều phối vùng, sử dụng đất đai và phân bổ hạ tầng. Trên cơ sở đó, hiện nay, các đơn vị hành chính cấp tỉnh sau sắp xếp, như: TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ… trong quá trình phát triển có thể rút ra những bài học quan trọng sau:

Thứ nhất, sáp nhập cần gắn với tái cơ cấu không gian phát triển. Mở rộng địa giới chỉ tạo ra không gian địa lý mới, trong khi hiệu quả phát triển phụ thuộc vào tái cấu trúc không gian kinh tế - xã hội một cách toàn diện. Các địa phương cần xây dựng tầm nhìn quy hoạch dài hạn, phát triển đô thị - công nghiệp - dịch vụ theo mô hình vùng đô thị trung tâm, thay đổi tư duy phát triển “hướng tâm” sang tư duy liên kết vùng để lan tỏa động lực phát triển ra toàn bộ không gian sáp nhập. Điều này đòi hỏi sự thay đổi cả về nhận thức trong quy hoạch, tổ chức không gian và mô hình đầu tư, theo hướng tích hợp liên vùng, có trọng tâm, trọng điểm và tương tác 2 chiều giữa trung tâm - ngoại vi.

Thứ hai, phát triển hạ tầng là điều kiện tiên quyết khai thác hiệu quả không gian kinh tế mới. Đột phá về kết cấu hạ tầng đóng vai trò kích hoạt động lực tăng trưởng mới. Hà Nội đã dành tới 45% vốn đầu tư công cho hạ tầng vùng ven, giúp định hình phân bố dân cư và dòng chảy đầu tư. Các địa phương cần ưu tiên hạ tầng kết nối - bao gồm vành đai, xuyên tâm, giao thông công cộng, hạ tầng số - để mở rộng dư địa phát triển và tạo cực tăng trưởng mới. Đặc biệt, việc phát triển hạ tầng phải đi trước một bước, mang tính định hướng không gian, thay vì chạy theo tốc độ đô thị hóa tự phát; đồng thời cần đồng bộ giữa hạ tầng cứng và hạ tầng mềm (thể chế, dữ liệu, logistics…).

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực quyết định hiệu quả chuyển dịch ngành nghề. Chuyển dịch lao động nhanh nhưng thiếu kỹ năng đã làm suy giảm chất lượng tăng trưởng vùng ven Hà Nội. Các địa phương cần triển khai đào tạo nghề, hỗ trợ di chuyển lao động chính thức, phát triển thị trường lao động linh hoạt - gắn với định hướng cơ cấu ngành nghề và nâng cao năng lực con người, để tạo tăng trưởng bao trùm và bền vững. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ có kỹ năng nghề mà còn thích ứng nhanh với công nghệ mới, mô hình sản xuất - dịch vụ hiện đại và xu hướng xanh - số hóa nền kinh tế.

Thứ tư, thiết chế điều phối vùng và quy hoạch tích hợp là nền tảng cho phát triển đồng bộ. Thiếu cơ chế phối hợp và quy hoạch tích hợp khiến các huyện sáp nhập khó hòa nhập vào chuỗi phát triển chung. Các đô thị lớn cần xây dựng thiết chế điều phối vùng có quyền lập quy hoạch, phân bổ nguồn lực, giám sát thực thi - đồng thời triển khai quy hoạch tích hợp liên ngành, có sự tham gia thực chất của các địa phương trong toàn chu trình chính sách. Thiết chế điều phối vùng phải có tính pháp lý rõ ràng, tính liên kết đa ngành, đa cấp, hoạt động dựa trên dữ liệu và đồng thuận chính sách - nhằm tránh tình trạng phát triển chồng chéo, manh mún hoặc xung đột lợi ích giữa các đơn vị hành chính cũ.

Thứ năm, cơ chế tài chính đặc thù để kích hoạt tiềm năng vùng sáp nhập. Phân bổ ngân sách theo tiêu chí hành chính cứng nhắc làm suy giảm động lực phát triển vùng ngoại vi. Các địa phương cần thiết lập cơ chế tài khóa linh hoạt, ưu đãi thuế, đầu tư trọng điểm, phân cấp sử dụng đất và huy động hiệu quả nguồn lực xã hội hóa. Đặc biệt, cần xây dựng “quỹ phát triển vùng sáp nhập” để thu hẹp khoảng cách giữa trung tâm và vùng ngoại vi. Việc thử nghiệm các công cụ tài chính mới như ngân sách vùng, trái phiếu phát triển hạ tầng, hợp tác công - tư (PPP) hoặc chia sẻ nguồn thu giữa trung tâm và ngoại vi sẽ là hướng đi cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư công và khơi thông nguồn lực.

Thứ sáu, cải cách thể chế và mô hình quản trị đô thị hiện đại là động lực nội sinh. Quản trị đô thị phân tán theo đơn vị hành chính truyền thống là lực cản phát triển không gian mở rộng. Cần chuyển sang mô hình thành phố vùng (metropolitan area) có quản lý thống nhất, vận hành minh bạch, linh hoạt, ứng dụng công nghệ số để tăng hiệu quả điều hành và dịch vụ công. Thể chế phù hợp là nền tảng bảo đảm phát triển không gian kinh tế bền vững và hiệu quả sau sáp nhập. Hệ thống quản trị mới cần được thiết kế dựa trên các nguyên tắc liên kết thể chế, tích hợp chính sách, minh bạch dữ liệu và tăng cường năng lực thực thi nhằm bảo đảm rằng sáp nhập không chỉ là sự cộng gộp hành chính mà là động lực tái cấu trúc mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồng Anh (2024). Hòa Lạc hướng đến “quận công nghệ cao”, https://hanoimoi.vn/hoa-lac-huong-den-quan-cong-nghe-cao-681419.html.

2. Cục Thống kê Hà Nội (2009-2024). Niên giám Thống kê Hà Nội các năm từ 2008 đến 2023.

3. Cục Thống kê TP. Hà Nội (2024). Báo cáo kinh tế - xã hội địa phương, Hà Nội.

4. Cục Thống kê TP. Hà Nội (2023). Báo cáo kinh tế - xã hội các huyện năm 2023.

5. ILO Việt Nam (2023), Báo cáo Lao động phi chính thức tại Việt Nam, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Hải, Lưu Quang Huy (2025). Hà Nội: Dòng chảy 50 năm quy hoạch xây dựng của thủ đô ngàn năm tuổi, Tạp chí Kiến trúc, số 5/2025.

7. OECD (2015). The Metropolitan Century Understanding Urbanisation and its Consequences Report, https://www.oecd.org.

8. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2022-2023). Khảo sát nhu cầu tuyển dụng tại Hà Nội năm 2022-2023, Hà Nội.

9. Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội (2023). Báo cáo về quản lý đất đai vùng ngoại thành, Hà Nội.

10. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội (2022-2023). Báo cáo đăng ký doanh nghiệp năm 2022-2023, Hà Nội.

Ngày nhận bài: 22/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/7/2025; Ngày duyệt đăng: 24/7/2025