Năng lực doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP. Hà Nội
ThS. Nguyễn Xuân Hiếu
Công ty Cổ phần Dịch vụ Viễn thông số Diginet
Tóm tắt
Hiện nay, tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa được xem là lực lượng có vai trò quan trọng trong tạo việc làm, đóng góp ngân sách và phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, năng lực của các doanh nghiệp này vẫn còn nhiều hạn chế, cần được xem xét cụ thể. Bằng phương pháp tổng quan tài liệu, nghiên cứu này đánh giá năng lực thực tế, đồng thời khám phá các tiềm năng, cơ hội cũng như thách thức mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp phải. Ngoài ra, nghiên cứu cũng nêu ra những khoảng trống còn tồn tại trong các nghiên cứu thực chứng về năng lực của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP. Hà Nội hiện nay.
Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực doanh nghiệp, Hà Nội
Summary
Currently, in Viet Nam in general and Ha Noi in particular, small and medium-sized enterprises are considered a vital force in job creation, tax contribution, and local economic development. However, the capacities of these enterprises remain limited and require detailed examination. Using a literature review approach, this study evaluates the actual capacities of SMEs while exploring the potentials, opportunities, and challenges they are facing. Additionally, the study identifies existing gaps in empirical research on small and medium-sized enterprise capacities in Ha Noi.
Keywords: Small and medium-sized enterprises, enterprise capacity, Ha Noi
GIỚI THIỆU
Trên thế giới, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thường được gắn với cụm từ “trái tim của nền kinh tế toàn cầu” (OECD, 2013), bởi họ là bộ phận chịu trách nhiệm phần lớn cho sự đổi mới và năng suất trong cộng đồng doanh nghiệp (DN). Theo OECD (2024), nhóm DN này chiếm 99% tổng số DN và tạo ra khoảng 2/3 lượng việc làm trong các nền kinh tế OECD. Tuy nhiên, do những rào cản liên quan tới quy mô và nguồn lực, nên những DNNVV thường gặp phải những hạn chế trong tài chính, quản lý, lãnh đạo, chiến lược thị trường cũng như cơ chế hoạt động (Tajeddin và cộng sự, 2023).
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nay là Bộ Tài chính (2023), Việt Nam có tới 97,4% số DN đang hoạt động là các DNNVV. Những DN này phân bố ở hầu hết các vùng miền, nhưng đa số hoạt động tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022) về số DN hoạt động theo tỉnh năm 2021 cho thấy, chỉ tính riêng Hà Nội đã có 178.493 DN đang hoạt động. Điều này cho thấy Hà Nội là một địa bàn năng động và ngày càng thu hút các DNNVV. Tuy nhiên, bên cạnh tiềm năng phát triển, các DNNVV ở Hà Nội cũng gặp những khó khăn và thách thức liên quan tới năng lực của DN. Đặc biệt, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay càng đòi hỏi những “năng lực động” để DN thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường và môi trường xung quanh (Soluk và Kammerlander, 2021).
Trên thực tế, số lượng các nghiên cứu về năng lực của DNNVV tại Việt Nam nói chung và tại Hà Nội nói riêng hiện nay vẫn còn tương đối khiêm tốn, thường tập trung vào một số năng lực đặc thù. Những nghiên cứu rời rạc này khiến bức tranh tổng quan về năng lực của các DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội vẫn còn thiếu sót và thiếu tính hệ thống.
Trong nghiên cứu này, tác giả tiến hành tổng hợp một hệ thống tổng quan để tìm hiểu năng lực chung của các DNNVV tại Hà Nội, đồng thời rút ra những hạn chế còn tồn tại để đề xuất phương hướng cho các DN, từ đó có thể giúp các DNNVV tại Hà Nội phát huy nhiều tiềm năng hơn trong thị trường biến động như hiện nay.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng quan hệ thống tài liệu để đánh giá và tổng hợp các nghiên cứu hiện có. Thông qua các từ khóa, tác giả đã tìm được 43 bài báo từ cơ sở dữ liệu Scopus và Google Scholar. Tác giả đã xem xét kỹ lưỡng phần tóm tắt và toàn văn của mỗi bài báo để sàng lọc các nghiên cứu không phù hợp. Các bài báo được chọn bao gồm các bài báo trên tạp chí đã được bình duyệt, chương sách và kỷ yếu hội nghị. Trong quá trình tổng quan, các bài báo liên quan bổ sung được trích dẫn trong các ấn phẩm này, tập trung vào các vấn đề về năng lực các DNNVV tại Hà Nội. Cuối cùng, từ quá trình lựa chọn dựa trên mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, tác giả đã tìm ra 11 bài báo phù hợp.
NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
Để đánh giá chính xác năng lực của DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội, tác giả xây dựng một cơ sở đánh giá tổng quan về năng lực của các DNNVV tại Việt Nam để tạo ra bối cảnh so sánh (Bảng 1).
Bảng 1: Tổng quan các nghiên cứu về doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Tác giả |
Tiêu đề |
Phạm vi |
Kết luận chính |
Trần Thị Thanh Huyền, Nguyễn Quốc Chỉnh, Trần Hữu Cường (2020) |
Năng lực lãnh đạo của giám đốc DNNVV ở Việt Nam |
Việt Nam |
Đối với lãnh đạo các DNNVV tại Việt Nam, bên cạnh các kỹ năng về chuyên môn và xã hội đã đáp ứng tương đối tốt, nhóm lãnh đạo này vẫn còn hạn chế trong các kỹ năng như: quản lý thời gian, hội họp, lập kế hoạch, xây dựng đội nhóm, quan hệ, phát triển đội ngũ, hình ảnh, xây dựng tầm nhìn và lập chiến lược, phối hợp các nguồn lực, đổi mới sáng tạo. |
Kim Hương Trang và cộng sự (2025) |
Khai thác khả năng hấp thụ tri thức số để thúc đẩy sự phát triển bền vững của DNNVV trong lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam |
Việt Nam |
Phần lớn các DNNVV tại Việt Nam còn gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình áp dụng và tận dụng các giải pháp công nghệ số. Tác giả nhấn mạnh cần coi trọng vai trò của lãnh đạo số và thúc đẩy khả năng hấp thụ tri thức số ở DNNVV, coi đây như một phương tiện giúp các DNNVV sản xuất tại thị trường mới nổi như Việt Nam. |
Nguyễn Văn Thích (2022) |
Tác động của toàn câu hóa đối với Việt Nam: Khả năng của các DNNVV trong việc thích ứng với những cơ hội và thách thức |
Việt Nam |
Kết quả kết luận rằng, Việt Nam vẫn đang trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa. Hầu hết các DNNVV Việt Nam không có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp từ các công ty MNCs nước ngoài. Tuy nhiên, các DNNVV Việt Nam lại có cơ hội mở rộng mạng lưới quan hệ thông qua toàn cầu hóa để học hỏi và nâng cao khả năng cạnh tranh. |
Chu Thanh Hải (2020) |
Phát triển DNNVV ở Việt Nam hiện nay |
Việt Nam |
Nghiên cứu nhấn mạnh những thành tựu và thách thức của DNNVV Việt Nam. Ngoài những đóng góp về tạo việc làm, ngân sách cho nhà nước và phát triển địa phương, DNNVV Việt Nam còn gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn lực, thiếu thông tin thị trường và liên kết yếu kém cũng như hạn chế về quy mô và DN đi đầu. |
Trần Thị Thu Thảo (2022) |
Nhân tố ảnh hưởng đến việc ứng dụng IFRS cho DNNVV tại ở Việt Nam |
Việt Nam |
Mặc dù đã tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu nhưng khả năng thích ứng và ứng dụng các chuẩn mực quốc tế của DNNVV vẫn còn thấp. Tác giả nhấn mạnh việc áp dụng IFRS là một điều cần thiết để nâng cao mức độ hội nhập của DNNVV Việt Nam, đồng thời kết luận có 5 yếu tố ảnh hưởng tích cực tới quá trình thúc đầy áp dụng IFRS này. |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Từ những nghiên cứu đi trước, bức tranh về năng lực của các DNNVV tại Việt Nam được miêu tả tương đối rõ ràng. Nghiên cứu của Chu Thanh Hải (2020) đã nêu lên những thành tựu của các DNNVV với những đóng góp quan trọng trong thúc đẩy sự chuyển mình và cất cánh của nền kinh tế, tạo ra gần 2,3 triệu việc làm giai đoạn 2017-2018, đóng góp khoảng 50% GDP, trên 30% tổng thu ngân sách nhà nước và 45% vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2015-2017. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các DN này vẫn còn rất nhiều trở ngại xuất phát từ đặc điểm quy mô nhỏ và vừa. Cụ thể hơn, những DN này chưa xây dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng, thiếu hụt thông tin thị trường cùng với năng lực liên kết liên doanh giữa các DN còn yếu kém.
Đối với năng lực lãnh đạo của các DNNVV, theo Trần Thị Thanh Huyền và cộng sự (2020), các lãnh đạo của DNNVV Việt Nam đã đáp ứng tốt các yêu cầu về kỹ năng cơ bản với khoảng 60%-70% Giám đốc DN có trình độ đại học trở lên. Kiến thức về pháp luật chính trị, văn hóa, xã hội, ngành nghề kinh doanh, lãnh đạo bản thân, quản trị nhân lực, marketing, tài chính kế toán của nhóm lãnh đạo này đều được đánh giá cao. Nhưng ngược lại, những nhân sự quan trọng này cỏn hạn chế về kỹ năng quản lý thời gian, hội họp, lập kế hoạch, xây dựng đội nhóm, đặc biệt là chưa có tầm nhìn xa trông rộng khi điều hành công ty.
Bàn về khả năng thích nghi, ứng dụng và đổi mới sáng tạo của các DNNVV, nghiên cứu của Kim Hương Trang và cộng sự (2025), Nguyễn Văn Thích (2022) và Trần Thị Thu Thảo (2022) đều nhận định rằng, nhóm DN này đang tích cực thích nghi và hưởng tới hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, ứng dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quy trình làm việc nhưng vẫn gặp rất nhiều trở ngại. Điều này phần lớn cũng xuất phát từ việc quy mô của DNNVV còn nhỏ, khiến DN gặp khó khăn trong việc cập nhật những thay đổi về công nghệ trên thế giới, đối mặt với áp lực cạnh tranh lớn và yếu thế hơn so với các sản phẩm đến từ các công ty đa quốc gia nước ngoài (Nguyễn Văn Thích, 2022). Tình trạng này tương tự với trường hợp trong áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) khi đòi hỏi các DNNVV phải đổi mới phương thức và phong cách làm việc truyền thống của mình.
Tóm lại, năng lực của các DNNVV tại Việt Nam đang có nhiều tiềm năng phát triển và cho thấy những dấu hiệu tích cực trong việc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nhóm DN này còn nhiều điểm cần cải thiện và nên có phương án để khắc phục những nhược điểm xuất phát từ điểm yếu quy mô nhỏ của mình cũng như hoàn thiện DN ngay từ nội bộ.
NGHIÊN CỨU VỀ NĂNG LỰC CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI HÀ NỘI
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hạnh (2020) về sự phát triển của các DNNVV trên địa bàn Hà Nội nhấn mạnh rằng các DNNVV đã đã có sự phát triển đáng kể trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đối diện với những thách thức về đổi mới công nghệ cũng như phương thức hoạt động, một bộ phận các DNNVV liên quan tới lĩnh vực công nghệ cao đã ra đời, cung cấp các sản phẩm hiện đại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, các DNNVV cũng trở nên nhạy bén hơn nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nhất định. Năng lực của cả người quản lý lẫn người lao động tại DNNVV ở Hà Nội đang bộc lộ những thiếu sót về kỹ năng chuyên môn. Không chỉ thế, nhóm DN này chưa có khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng tốt, dẫn tới hạn chế trong ứng dụng những công nghệ cao. Nghiên cứu cũng khẳng định, năng lực cạnh tranh của nhóm DN này chưa đáp ứng được trong bối cảnh nền kinh tế có sự hội nhập sâu rộng.
Tiếp theo, khảo sát về năng lực lãnh đạo của các DNNVV thể hiện chiều hướng tương đối tích cực khi nhóm lãnh đạo này đáp ứng được khá tốt những yêu cầu về kỹ năng cơ bản của trong lãnh đạo và quản lý DN, nhưng nhóm lãnh đạo của các DNNVV trên địa bàn TP. Nội lại chỉ thể hiện mức đáp ứng vừa đủ so với tiêu chuẩn và hầu như không có gì nổi trội (Trần Thị Thanh Huyền và cộng sự, 2023).
Ngoài ra, các DNNVV tại TP. Hà Nội vẫn đang cho thấy sự e ngại và có phần bị động trước xu thế chuyển đổi số cũng như hiểu biết về chuyển đổi số còn hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu đến từ sự tiếp cận hạn chế với các nguồn lực cần thiết để học hỏi, thích nghi và đổi mới DN (Dương Nguyễn Thanh Thúy, 2025).
Tuy nhiên, nhìn chung, các DNNVV tại Hà Nội đang cho thấy xu hướng khá tích cực và năng động trong việc hướng tới sự ứng dụng, thích nghi với các tiêu chuẩn quốc tế khi thay đổi phong cách lãnh đạo, đẩy mạnh sự chia sẻ kiến thức để làm cơ sở nâng cao năng lực sáng tạo đổi mới cho DN (Nguyễn Thị Tuyến và Lê Ba Phong, 2025). Trường hợp tương tự cũng được nhắc tới trong nghiên cứu của Nguyễn La Soa và Ngô Văn Hậu (2023) với nghiên cứu về mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của các DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội. Mặc dù vẫn còn tồn tại những lỗ hổng năng lực về khả năng thích nghi, nhưng các DN đang dần làm quen với những tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nhóm DNNVV trên thị trường (Bảng 2).
Bảng 2: Tổng quan các nghiên cứu về doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội
Tác giả |
Tiêu đề |
Phạm vi |
Kết luận chính |
Dương Nguyễn Thanh Thúy (2025) |
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ chuyển đổi số của DNNVV tại Hà Nội |
Hà Nội |
Các DNNVV còn e ngại, bị động trước xu thế chuyển đổi số, hạn chế về nguồn lực cũng như thiếu hiểu biết về chuyển đổi số. Từ đó, tác giả đề xuất phương án đẩy mạnh chuyển đổi số thông qua các nhân tố được khám phá và phân tích có ảnh hưởng tới mức độ chuyển đổi số tại DNNVV Hà Nội bao gồm: Năng lực đổi mới, Chính sách nhà nước và Năng lực lãnh đạo. |
Trần Thị Thanh Huyền, Nguyễn Quốc Chỉnh, Trần Hữu Cường (2023) |
Năng lực lãnh đạo của giám đốc DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội |
Hà Nội |
Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực của giám đốc DNNVV tại Hà Nội chỉ vừa đạt mức đáp ứng cơ bản, các tiêu chí về kiến thức và kỹ năng không có tiêu chí nào nổi bật; về thái độ, có 2 tiêu chí là tự tin và quyết đoán nổi trội hơn. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cho thấy, lãnh đạo ở các lĩnh vực dịch vụ có năng lực tốt hơn so với lĩnh vực sản xuất. |
Nguyễn La Soa và Ngô Văn Hậu (2023) |
Nghiên cứu mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS - Trường hợp nghiên cứu với các DNNVV trên địa bàn Hà Nội |
Hà Nội |
Việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế đang ngày trở thành cầu nối để tăng lợi thế cạnh tranh của DN, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các DN nói chung và các DNNVV trên địa bàn Hà Nội nói riêng vẫn gặp rất nhiều rào cản để ứng dụng và thích nghi với sự thay đổi này. Từ đó, tác giả đã nghiên cứu và khám phá ra 5 yếu tố ảnh hưởng tới mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS để thúc đẩy quá trình ứng dụng IFRS trong DNNVV. |
Nguyễn Thị Hạnh (2020) |
Phát triển DNNVV ở TP. Hà Nội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 |
Hà Nội |
Tác giả nhận định Cách mạng 4.0 đã khiến các DNNVV tại Hà Nội có sự phát triển tích cực và đổi mới, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế như: trình độ quản lý, chuyên môn, vốn, quy mô còn hạn chế, khó khăn trong ứng dụng công nghệ. |
Nguyễn Thị Tuyến, Lê Ba Phong (2025) |
Tác động của lãnh đạo chuyển đổi đến hành vi chia sẻ tri thức của nhân viên tại các DNNVV trên địa bàn Hà Nội |
Hà Nội |
Nghiên cứu cho thấy, các DNNVV tại Hà Nội đã thể hiện sự thích ứng tương đối với sự thay đổi của môi trường qua lối phong cách lãnh đạo chuyển đổi, thúc đẩy sự chia sẻ tri thức trong nhân viên, từ đó nâng cao hiệu suất tổ chức và năng lực đổi mới sáng tạo. |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Như vậy, đối với đánh giá về năng lực của các DNNVV trên địa bàn Hà Nội, tác giả nhận thấy nhóm DN này có sự phát triển khá tương đồng với xu hướng phát triển chung của các DNNVV tại Việt Nam. Tuy nhiên, năng lực về quản lý lãnh đạo lại có phần thấp hơn so với mặt bằng các DNNVV ở Việt Nam khi các kỹ năng cần thiết hầu như chỉ vừa đạt yêu cầu. Mặt khác, các DNNVV tại Hà Nội vẫn thể hiện những hạn chế trong năng lực thích ứng với thay đổi xã hội, năng lực ứng dụng các tiêu chuẩn quốc tế hay khả năng tiếp cận nguồn lực và xây dựng hệ thống nội bộ hiện đại, hiệu quả.
ĐỀ XUẤT HƯỚNG NGHIÊN CỨU TƯƠNG LAI
Việc nghiên cứu về thực tiễn năng lực của các DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội vẫn còn rời rạc và cần được lấp đầy bởi các khoảng trống. Các nghiên cứu trong tương lai cần tập trung vào đánh giá năng lực của nhóm DN này một cách toàn diện hơn dựa trên các cơ sở hợp lý, như: năng lực tổ chức phân tầng theo Winter (2003) hoặc năng lực động của DN với những nhóm năng lực đặc thù riêng (VCCI, 2023). Cụ thể, trong Báo cáo thường niên năm 2023, VCCI đã phân tích năng lực của DN dựa theo khung phân tích năng lực động bao gồm các nhóm năng lực: Năng lực học hỏi, năng lực đổi mới sáng tạo, năng lực xây dựng và phát triển thương hiệu, năng lực cảm nhận thị trường, năng lực nắm bắt cơ hội, năng lực kết nối mạng lưới, năng lực thích ứng, năng lực quản trị rủi ro chuỗi cung ứng. Các nghiên cứu tương lai có thể đi theo một trình tự nghiên cứu rõ ràng để có cái nhìn hệ thống và tổng quan nhất về năng lực của DNNVV tại Hà Nội, từ đó đưa ra các hàm ý chính sách phù hợp.
Ngoài ra, một phương hướng khác cho các nghiên cứu tương lai đó là nghiên cứu các DNNVV theo từng nhóm năng lực cụ thể với những định hướng rõ ràng hơn như phát triển bền vững - một xu hướng mới trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế thế giới.
Mặt khác, từ các nghiên cứu đi trước, có thể nhận thấy các DNNVV tại Hà Nội vẫn còn rất nhiều lỗ hổng trong năng lực, với nguyên nhân sâu xa xuất phát chủ yếu từ bất lợi quy mô nhỏ của DN. Các nghiên cứu tương lai cần tìm ra giải pháp để giảm thiểu hoặc giải quyết triệt để những hạn chế này thông qua những phương án đề xuất được xem xét trực tiếp và dành riêng cho các DNNVV nói chung cũng như trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023). Báo cáo Hiện trạng hỗ trợ và chuyển đổi xanh của DNNVV vùng sâu, vùng xa.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022). Sách trắng DN Việt Nam 2022.
3. Hải, C. T. (2020). Phát triển DNNVV ở Việt Nam hiện nay. Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Truy cập ngày, 10(8), 2023.
4. Hạnh, N. T. (2020). Phát triển DNNVV ở TP. Hà Nội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, TNU Journal of Science and Technology, 225(10), 77-81.
5. Huyền, T. T. T., Chỉnh, N. Q., và Cường, T. H. (2020). Năng lực lãnh đạo của giám đốc DNNVV ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 18(11), 1036-1045.
6. Huyền, T. T. T., Chỉnh, N. Q., và Cường, T. H. (2023). Năng lực lãnh đạo của giám đốc DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 21(8), 1037-1949.
7. La Soa, N., và Hậu, T. N. V. (2023). Nghiên cứu mức độ sẵn sàng áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính (IFRS) - Trường hợp nghiên cứu với các DN vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội.
8. OECD (2013). Small and medium enterprises, www.oecd.org/industry/smes/.
9. OECD (2024). Global corporate sustainability report 2024, OECD Publishing.
10. Soluk, J., and Kammerlander, N. (2021). Digital transformation in family-owned Mittelstand firms: A dynamic capabilities perspective, European Journal of Information Systems, 30(6), 676-711.
11. Tajeddin, M., Farashahi, M., Moghaddam, K., Simba, A., and Edwards, G. (2023). Internationalization of emerging economy SMEs: a tripod approach, Journal of International Management, 29(1), 100991.
12. Thảo, T. T. T. (2022). Nhân tố ảnh hưởng đến việc ứng dụng chuẩn mực kế toán quốc tế cho DN vừa và nhỏ (IFRS for SMEs) tại DN vừa và nhỏ ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
13. Thúy, D. N. T. (2025). Nghiên cứu mức độ chuyển đổi số trong các DN vừa và nhỏ trên địa bàn TP. Hà Nội và hàm ý chính sách cho quản lý, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Thương mại.
14. Trang, K. H., Hoàng, Đ. V., Vân, N. H., và Thịnh, N. H. (2025). Khai thác khả năng hấp thụ tri thức số để thúc đẩy sự phát triển bền vững của DN vừa và nhỏ trong lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh - Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 20(5), 3-19.
15. Tuyen, N. T., và Phong, L. B. (2025). Tác động của lãnh đạo chuyển đổi đến hành vi chia sẻ tri thức của nhân viên tại các DNNVV trên địa bàn Hà Nội, VNU journal of economics and business, 5(1), 73-73.
16. Văn Thích, N. (2022). Tác động của toàn câu hóa đối với Việt Nam: Khả năng của các DNNVV trong việc thích ứng với những cơ hội và thách thức, Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, 201, 74-86.
17. VCCI - EDI (2023). Báo cáo thường niên DN Việt Nam 2022-2023.
18. Winter, S. (2003). Understanding Dynamic Capabilities, Strategic Management Journal, 24, 991-995.
Ngày nhận bài: 20/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 16/9/2025; Ngày duyệt đăng: 23/9/2025 |
Bình luận