TS. Nguyễn Văn Lành

Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu Nghị,

Email: dungnguyenthanhtra79@gmail.com

Tóm tắt

Bài viết tập trung làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về đất đai vùng Đồng bằng sông Hồng trên các khía cạnh: hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cải cách thủ tục hành chính; xây dựng cơ sở dữ liệu và số hóa quản lý đất; điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất… và những tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất những định hướng chính sách nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý đất đai của Vùng trong những năm tới.

Từ khóa: Quản lý nhà nước, đất đai, vùng Đồng bằng sông Hồng

Summary

The study analyzes the current state of state land management in the Red River Delta, focusing on several key dimensions: the improvement of land use planning and land use plans; reform of administrative procedures; development of databases and the digitalization of land management; restructuring and enhancement of land use efficiency; and their impacts on the region’s socio-economic development. Based on this analysis, the article proposes policy directions aimed at further improving the effectiveness of land management in the region in the coming years.

Keywords: State management, land administration, the Red River Delta

GIỚI THIỆU

Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là một trong những vùng kinh tế - xã hội trọng điểm của Việt Nam, bao gồm 11 tỉnh/thành phố với diện tích khoảng 21.278 km² (chiếm khoảng 6,42% diện tích cả nước). Năm 2022, dân số của Vùng là khoảng 23,45 triệu người, tương đương khoảng 23% dân số cả nước; là vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước (trên 1.100 người/km²), tạo sức ép lớn lên quỹ đất. ĐBSH đồng thời là vựa lúa lớn thứ hai của Việt Nam (sau Đồng bằng sông Cửu Long), có đất phù sa màu mỡ phù hợp cho phát triển nông nghiệp; đất nông nghiệp chiếm trên một nửa diện tích vùng (khoảng 760.000 hecta). Bên cạnh đó, vùng ĐBSH tập trung nhiều đô thị lớn (Thủ đô Hà Nội, TP. Hải Phòng...), khu công nghiệp và cơ sở hạ tầng trọng điểm của miền Bắc. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá rõ thực trạng quản lý nhà nước về đất đai vùng ĐBSH, tạo cơ sở đề xuất những định hướng chính sách phù hợp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý đất đai của Vùng trong những năm tới là hết sức cần thiết.

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Đến nay, các địa phương trong vùng ĐBSH đã cơ bản hoàn thành quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030 theo Luật Quy hoạch, đảm bảo sự đồng bộ với quy hoạch Vùng và quốc gia. Theo đó, cơ cấu sử dụng đất của Vùng có sự chuyển dịch theo hướng phục vụ tái cơ cấu kinh tế. Diện tích đất dành cho công nghiệp, đô thị, hạ tầng tăng lên, trong khi vẫn giữ được tỷ lệ hợp lý cho đất nông nghiệp quan trọng. Theo số liệu kiểm kê, đến năm 2020 tổng diện tích đất nông nghiệp của Vùng là 906.900 hecta (chiếm 60,6% diện tích tự nhiên), giảm 41.000 hecta so với năm 2010; đất phi nông nghiệp tăng khoảng 50.000 hecta. Việc chuyển đổi chủ yếu tuân theo quy hoạch, tập trung ở các khu vực ven đô thị để phát triển khu công nghiệp, đô thị mới.

Cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực đất đai

Nhiều tỉnh, thành phố trong Vùng đã đẩy mạnh ứng dụng cơ chế “một cửa” liên thông trong quản lý đất đai, rút ngắn thời gian cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và các thủ tục chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất. Nhờ cải cách thủ tục hành chính, tỷ lệ hồ sơ đất đai được giải quyết đúng hạn tăng lên, giảm tình trạng tồn đọng kéo dài. Chẳng hạn, đến năm 2023 tại một số địa phương như Hải Dương, 100% hồ sơ thủ tục đất đai đã được cập nhật lên hệ thống một cửa điện tử và công khai tiến độ xử lý. Việc minh bạch hóa thông tin và đơn giản hóa thủ tục đã hạn chế nhũng nhiễu, tiêu cực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ công về đất đai.

Xây dựng cơ sở dữ liệu và số hóa quản lý đất

Trong giai đoạn vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã triển khai dự án Cơ sở dữ liệu (CSDL) đất đai quốc gia, trong đó ưu tiên thực hiện tại các tỉnh thành vùng ĐBSH. Các tỉnh ĐBSH đã có nhiều nỗ lực trong việc kết nối liên thông CSDL đất đai với Trung ương trong các năm 2024-2025. Một số địa phương (như Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng) đã bước đầu vận hành Cổng thông tin đất đai trực tuyến, cung cấp thông tin quy hoạch, giá đất công khai. Việc hiện đại hóa hệ thống quản lý giúp dữ liệu đất đai ngày càng “đúng, đủ, sạch, sống”, tạo nền tảng cho giám sát và ra quyết định chính sách chuẩn xác.

Bảo vệ đất nông nghiệp và điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất hợp lý

Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề an ninh lương thực, các cấp chính quyền vùng ĐBSH đã bước đầu triển khai các giải pháp bảo vệ đất trồng lúa và đất nông nghiệp quan trọng. Trong quá trình phê duyệt dự án phi nông nghiệp, nguyên tắc “hạn chế tối đa lấy đất lúa” đã được quán triệt. Nhờ đó, tuy diện tích đất nông nghiệp giảm dần theo quá trình công nghiệp hóa, nhưng năng suất và chất lượng sản xuất nông nghiệp lại tăng, đảm bảo sản lượng lương thực vùng gần như không giảm. Bên cạnh đó, Vùng đã tận dụng một phần diện tích đất trũng, đất hoang hóa để phát triển nuôi trồng thủy sản, góp phần chuyển đổi sinh kế hiệu quả. Giai đoạn 2010-2020, diện tích đất nuôi trồng thủy sản toàn Vùng tăng thêm 12.800 hecta (đạt khoảng 93.900 hecta vào năm 2020), cao nhất cả nước, giúp ĐBSH trở thành trung tâm nuôi thủy sản nước ngọt lớn. Song song với đó, đất lâm nghiệp ở các vùng đồi gò tại các tỉnh như Quảng Ninh, Ninh Bình… cũng được mở rộng thêm 7.200 hecta nhờ chương trình trồng rừng và khoanh nuôi phục hồi, tăng độ che phủ rừng, cải thiện môi trường sinh thái.

Chương trình “dồn điền, đổi thửa” và tích tụ đất nông nghiệp

Các tỉnh ĐBSH đi đầu cả nước trong việc thực hiện dồn điền, đổi thửa từ sau năm 2010 nhằm khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất. Nhiều địa phương (Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương…) đã chia lại ruộng đất, hình thành những thửa lớn hơn cho nông hộ. Kết quả là quy mô ruộng đất bình quân/hộ đã tăng lên; tỷ lệ hộ có diện tích quá nhỏ giảm dần. Khảo sát cho thấy năm 2020, tỷ lệ hộ nông dân ĐBSH sở hữu dưới 0,5 hecta đất giảm còn khoảng 92,1%, so với mức 96,2% của năm 2012 (dù vẫn cao nhất cả nước). Những cánh đồng mẫu lớn bắt đầu xuất hiện, tạo thuận lợi cho cơ giới hóa, tăng năng suất lao động nông nghiệp trong vùng. Việc tích tụ ruộng đất thông qua thuê đất, góp đất, đã giúp hình thành các trang trại quy mô hàng chục hecta; ví dụ mô hình cánh đồng lớn trồng lúa ở Thái Bình cho lợi nhuận 300.000-400.000 đồng/sào/vụ, tương đương 200-300 triệu đồng/vụ trên diện tích 25 hecta. Đây là hướng đi tích cực, chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Thu hút đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng đất phi nông nghiệp

Nhờ vị trí thuận lợi và chính sách ưu đãi, ĐBSH đã thu hút lượng lớn vốn đầu tư vào các khu công nghiệp. Tính đến năm 2023, vùng có khoảng 179 khu công nghiệp, trong đó nhiều khu công nghiệp đã lấp đầy hơn 80% diện tích. Việc hình thành các khu công nghiệp, khu kinh tế đã chuyển đổi mục đích sử dụng hàng chục nghìn hecta đất sang công nghiệp, dịch vụ, tạo mặt bằng cho sản xuất hiện đại. Nguồn lực đất đai này đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế vùng: GRDP vùng ĐBSH năm 2024 tăng xấp xỉ 7,9%, cao hơn mức bình quân cả nước. Ngoài ra, quỹ đất đô thị được mở rộng đã cho phép phát triển nhiều khu đô thị mới, khu nhà ở hiện đại, cải thiện bộ mặt hạ tầng đô thị của các tỉnh trong vùng. Công tác quản lý trật tự, quy hoạch đô thị cũng được tăng cường, điển hình là Hà Nội và Hải Phòng đã lập quy hoạch phân khu sông Hồng, sông Cấm để định hướng sử dụng đất ven sông bền vững.

ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH CẢI THIỆN HIỆU QUẢ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Để tiếp tục cải thiện, nâng cao hiệu quả quản lý đất đai vùng ĐBSH, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện khung pháp luật về đất đai và thể chế quản lý. Theo đó, cần nhanh chóng ban hành Luật Đất đai (sửa đổi) và các nghị định hướng dẫn theo hướng thể chế hóa đầy đủ các nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng trong quản lý, sử dụng đất. Cần xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp chính quyền trong quản lý đất (tỉnh, xã), tránh chồng chéo hoặc bỏ trống. Nghiên cứu khả thi việc thực hiện chế độ đa sở hữu đất đai có kiểm soát (kết hợp sở hữu toàn dân với quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài của tư nhân) như một số khuyến nghị của chuyên gia. Điều này nhằm tạo động lực cho người sử dụng đất mạnh dạn đầu tư lâu dài, phát huy tối đa tiềm năng đất đai, đồng thời Nhà nước vẫn nắm quyền điều tiết để bảo đảm lợi ích công. Song song với đó, cần đổi mới cơ chế tài chính đất đai: bỏ khung giá đất và xây dựng hệ thống định giá đất theo thị trường, có sự tham gia của tổ chức tư vấn định giá độc lập, để đảm bảo việc bồi thường, thuế đất sát thực tế và công bằng hơn.

Hai là, tăng cường chất lượng và kỷ luật thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Cụ thể, Quy hoạch sử dụng đất vùng ĐBSH phải đảm bảo tầm nhìn dài hạn, tích hợp đa ngành (nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, giao thông, môi trường…) và phù hợp với chiến lược phát triển bền vững. Cần rà soát, điều chỉnh những quy hoạch bất hợp lý, ví dụ: phân bổ khu công nghiệp, đô thị nên ưu tiên đất hoang hóa, đất kém hiệu quả, hạn chế tối đa việc sử dụng đất lúa loại tốt. Xác định rõ vùng cần bảo vệ nghiêm ngặt (vùng trũng lõi lúa, vùng rừng phòng hộ ven biển…) và có biện pháp pháp lý để ngăn chặn chuyển đổi mục đích tràn lan. Nâng cao kỷ luật thực hiện quy hoạch: chính quyền các cấp phải công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thường xuyên thanh tra, xử lý nghiêm các trường hợp sử dụng đất sai quy hoạch, sai mục đích. Đặc biệt, cần ngăn chặn tình trạng “quy hoạch treo” gây lãng phí đất; dự án đã giao đất nhưng không triển khai phải được thu hồi kịp thời để giao cho đơn vị khác có năng lực hơn. Việc tổ chức thực hiện tốt quy hoạch sẽ giúp sử dụng đất đúng hướng, đúng mục tiêu và tránh xung đột lợi ích về sau.

Ba là, bảo vệ đất nông nghiệp và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Chính sách đất đai vùng ĐBSH cần nhấn mạnh yêu cầu giữ vững diện tích đất trồng lúa tối thiểu theo chỉ tiêu Chính phủ giao, coi đây là “vùng an ninh lương thực” quốc gia. Đối với diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi sang mục đích khác, cần thực hiện nguyên tắc “đất ở đâu, lúa ở đó” - nghĩa là nếu lấy đất lúa thì phải cải tạo diện tích đất khác để bù lại sản lượng (ví dụ khai hoang đất chưa sử dụng hoặc tăng vụ trên diện tích còn lại). Tăng cường đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, thủy lợi, ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp hiện có. Đồng thời, thúc đẩy mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô thị trên quỹ đất nhỏ hẹp - đây là hướng đi phù hợp cho ĐBSH (ví dụ trồng rau, hoa trong nhà kính, trang trại bò sữa quy mô lớn tại ngoại thành Hà Nội...). Nhà nước cần hỗ trợ tín dụng, khoa học kỹ thuật cho nông dân và doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này, giúp tăng giá trị thu được trên mỗi ha đất, qua đó giảm áp lực mở rộng diện tích. Bên cạnh đó, có thể xem xét chính sách chuyển đổi cơ cấu cây trồng linh hoạt trên đất lúa kém hiệu quả, khuyến khích nông dân chuyển một phần đất lúa sang trồng cây có giá trị cao hoặc nuôi trồng thủy sản bền vững, vừa tăng thu nhập vừa giảm dư thừa lúa gạo.

Bốn là, thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất gắn với bảo đảm sinh kế cho nông dân. Để khắc phục manh mún, cần tạo lập thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp năng động hơn. Kiến nghị nới lỏng hạn điền (diện tích nhận chuyển nhượng tối đa) đối với đất nông nghiệp ở ĐBSH, có thể nâng cao hơn mức 2-3 hecta hiện nay, đồng thời xóa bỏ quy định thời hạn sử dụng 50 năm cho nông hộ, tiến tới giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho nông dân. Những điều chỉnh này sẽ khuyến khích người dân và doanh nghiệp mạnh dạn thuê mua đất để đầu tư quy mô lớn, vì họ yên tâm về quyền lợi lâu dài trên đất. Tuy nhiên, quá trình tích tụ đất đai phải đi đôi với bảo đảm sinh kế bền vững: các hộ nông dân nhượng đất cần được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tham gia vào chuỗi giá trị nông sản (như trở thành công nhân nông trại, xã viên hợp tác xã). Chính quyền địa phương nên đóng vai trò trung gian, thiết lập các sàn giao dịch quyền sử dụng đất công khai, giúp nối kết hộ có đất với doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất sản xuất, qua đó giảm tình trạng đất bỏ hoang. Ngoài ra, cần phát huy các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết nông dân trên cơ sở góp đất: xây dựng mô hình cánh đồng lớn do hợp tác xã hoặc doanh nghiệp liên kết tổ chức sản xuất, lợi nhuận chia sẻ, để nông dân không mất đất mà vẫn được hưởng lợi từ quy mô lớn. Đây là hướng đi giúp tăng quy mô sản xuất mà không gây xáo trộn xã hội lớn, đã và đang được khuyến khích tại nhiều địa phương ĐBSH.

Năm là, nâng cao hiệu quả quản lý đất đô thị và thị trường bất động sản. Đối với khu vực đô thị, cần tăng cường quản lý quy hoạch kiến trúc và sử dụng đất đô thị. Các thành phố trong vùng nên sớm hoàn thiện quy hoạch phân khu, quy hoạch sử dụng đất chi tiết đến từng ô phố, làm cơ sở cấp phép xây dựng và kiểm soát phát triển. Thực hiện nghiêm quy định dành quỹ đất cho giao thông, công viên, nhà ở xã hội trong các dự án phát triển đô thị, khu dân cư mới. Cải thiện hệ thống giao thông công cộng để giảm áp lực mở đường mới trên đất đô thị vốn đắt đỏ. Về thị trường, cần có biện pháp ngăn chặn đầu cơ đất: minh bạch thông tin quy hoạch, kế hoạch nâng cấp đơn vị hành chính (tránh tình trạng giới đầu cơ lợi dụng tin đồn quy hoạch để thổi giá đất, áp dụng thuế cao đối với trường hợp mua bán lướt sóng, sở hữu nhiều bất động sản. Nhà nước cũng có thể can thiệp thông qua chính sách tín dụng (hạn chế cho vay đầu cơ đất) và quy định mức giá trần trong đấu giá đất để tránh tình trạng giá trúng quá cao bất thường rồi bỏ cọc gây nhiễu loạn thị trường. Việc phát triển hệ thống thông tin đất đai trực tuyến cung cấp giá đất tham khảo, dữ liệu giao dịch thị trường cũng rất quan trọng giúp thị trường vận hành minh bạch, ổn định hơn. Tóm lại, quản lý nhà nước cần chủ động, linh hoạt điều tiết để thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, sử dụng đất đô thị hiệu quả, tránh các cơn sốt ảo gây hệ lụy xấu cho nền kinh tế.

Sáu là, đẩy mạnh chuyển đổi số và minh bạch hóa trong quản lý đất đai. Tiếp nối những kết quả đã đạt, các tỉnh ĐBSH cần ưu tiên nguồn lực để hoàn thành CSDL đất đai đồng bộ, thống nhất trên toàn Vùng trước năm 2025. Khi dữ liệu về thửa đất, quy hoạch, giá đất, tình trạng pháp lý... được số hóa đầy đủ và kết nối liên thông, sẽ tạo bước đột phá trong giám sát và ra quyết định. Người dân, doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu thông tin đất đai, giảm thiểu cơ hội trục lợi từ sự thiếu thông tin. Bên cạnh đó, chuyển đổi số cho phép áp dụng các công nghệ mới trong quản lý: sử dụng ảnh viễn thám, GIS để giám sát biến động sử dụng đất; ứng dụng trí tuệ nhân tạo phân tích dữ liệu dự báo nhu cầu đất... Cần xây dựng cơ chế để chia sẻ dữ liệu đất đai giữa các địa phương trong Vùng và với các bộ, ngành liên quan (xây dựng, nông nghiệp, môi trường) nhằm phục vụ quản lý tổng hợp. Cùng với đó, công khai dữ liệu đất đai (trừ thông tin mật, nhạy cảm) cho công chúng tiếp cận cũng là biện pháp hữu hiệu tăng tính minh bạch, giúp giảm khiếu kiện, tranh chấp do người dân nắm rõ quy hoạch, pháp lý đất đai; đồng thời tạo môi trường đầu tư thuận lợi, giảm chi phí giao dịch.

Bảy là, nâng cao năng lực bộ máy quản lý và sự tham gia của cộng đồng. Để các chính sách thực thi hiệu quả, yếu tố con người giữ vai trò quyết định. Các địa phương vùng ĐBSH cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý đất đai về chuyên môn (quy hoạch, định giá đất, pháp luật...) cũng như đạo đức công vụ. Kiên quyết phòng chống tham nhũng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực đất đai vốn nhạy cảm và dễ phát sinh tiêu cực. Thiết lập các kênh giám sát độc lập (qua HĐND, Mặt trận Tổ quốc, báo chí, cộng đồng) đối với việc quản lý và sử dụng đất công, dự án BT, BOT… để kịp thời phát hiện sai phạm. Đồng thời, thúc đẩy sự tham gia của người dân ngay từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và trong quá trình thu hồi, bồi thường. Cơ quan quản lý nên định kỳ tổ chức tham vấn cộng đồng, lắng nghe ý kiến dân cư, chuyên gia nhằm điều chỉnh chính sách sát thực tiễn và tạo đồng thuận. Khi người dân được tham gia và được hưởng lợi công bằng từ quá trình quản lý, sử dụng đất, họ sẽ ủng hộ và tích cực chấp hành các chủ trương, góp phần giảm xung đột, khiếu kiện.

Những định hướng trên đây nhắm tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng một hệ thống quản lý đất đai hiện đại, hiệu quả và công bằng cho vùng ĐBSH. Đó là hệ thống mà ở đó đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng tiết kiệm và bền vững; mọi người dân, doanh nghiệp tiếp cận đất đai thuận lợi và lợi ích từ đất đai được chia sẻ hài hòa, đóng góp vào sự phồn vinh chung của Vùng.

KẾT LUẬN

Quản lý nhà nước về đất đai vùng ĐBSH trong 5 năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Vùng. Các địa phương đã hoàn thành việc lập quy hoạch sử dụng đất thời kỳ mới, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và bước đầu kiểm soát việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo hướng hiệu quả. Nhờ đó, nguồn lực đất đai được khai thác tốt hơn, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao của Vùng (tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2023 đạt xấp xỉ 7,8%, thuộc nhóm dẫn đầu cả nước). Việc bảo vệ đất nông nghiệp trọng yếu và điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất hợp lý đã giúp ĐBSH duy trì được vai trò vựa lúa, đồng thời mở rộng được đất cho công nghiệp, đô thị để thúc đẩy hiện đại hóa. Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống quản lý đất đai hiện đại, hiệu quả và công bằng cho vùng ĐBSH vẫn là môt yêu cầu quan trọng, góp phần vào sự phát triển của Vùng trong những năm tới.

(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021). Quyết định 1435/QĐ-BTNMT phê duyệt và công bố kết quả kiểm kê diện tích đất đai năm 2019.

2. Cục Thống kê TP. Hà Nội (2023). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Hà Nội 2023.

3. Hà Văn (2023). Chuyển dịch lao động và cơ hội tăng năng suất lao động nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng. Tạp chí Công Thương, số 1/2024.

4. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Lê Thành Long (2019). Sử dụng nguồn lực đất đai phục vụ tái cơ cấu ngành Nông nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng. Tạp chí Tài chính.

5. Phạm Minh Chính (2023). Phát biểu tại Hội nghị triển khai Nghị quyết 30-NQ/TW về phát triển vùng ĐBSH, ngày 12/2/2023, Hạ Long.

6. Tổng cục Thống kê (2021). Niên giám Thống kê Việt Nam 2020. Nxb Thống kê, Hà Nội.

7. Ngân hàng Thế giới (2011). Báo cáo Phát triển Việt Nam: Quản lý Đất đai để Tăng trưởng. Thông tin tham khảo về cải cách quản lý đất đai.

8. Trần Thị Minh Tuyết (2020). Chính sách đất đai phát triển “tam nông”: Thực trạng và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Tài chính.

Ngày nhận bài: 5/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/8/2025; Ngày duyệt đăng: 21/8/2025