Giải pháp cho doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam trước diễn biến thuế đối ứng của Mỹ
TS. Trần Thị Thu Hương
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Nghiên cứu trình bày khái quát về thuế đối ứng theo quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), phân tích đặc điểm pháp lý và kinh tế cũng như các tác động của thuế đối ứng tới quốc gia áp thuế và bị áp thuế. Bên cạnh đó, tác giả cũng tóm lược diễn biến thuế đối ứng của Mỹ đối với Việt Nam và đưa ra quan điểm đánh giá tác động đối với ngành logistics Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp quan trọng cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics nhằm thích ứng nhanh chóng với chính sách thuế quan mới của Mỹ.
Từ khoá: Mỹ, logistics, thuế đối ứng, Việt Nam
Summary
The study presents an overview of countervailing duties under WTO regulations, analyzing their legal and economic characteristics as well as the impacts of such duties on both the imposing and targeted countries. In addition, the author summarizes the developments of the United States’ countervailing duties against Viet Nam and offers an assessment of their impact on Viet Nam’s logistics sector. Based on the research findings, the author proposes several key solutions for logistics service enterprises to adapt to the new U.S. tariff policies promptly.
Keywords: United States, logistics, countervailing duties, Viet Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày 2/4/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố Sắc lệnh áp Thuế đối ứng với tất cả hàng hoá nhập khẩu từ các đối tác thương mại của Mỹ. Đây được xem là động thái chưa từng có tiền lệ trong lịch sử và được kỳ vọng có thể mang lại nhiều lợi ích cho nước Mỹ, đó là: (1) Xoá bỏ thâm hụt thương mại song phương giữa Mỹ và các quốc gia riêng lẻ; (2) Tạo áp lực khiến các đối tác có thặng dư thương mại lớn với Mỹ phải hạ thuế và tăng lượng nhập khẩu đối với hàng hoá của Mỹ; (3) Giúp Mỹ dịch chuyển chuỗi cung ứng, đưa sản xuất về Mỹ và bảo hộ sản xuất trong nước; (4) Gợi mở các quốc gia có thặng dư thương mại cao phải tiếp tục đàm phán riêng lẻ có lợi cho Mỹ.
Kể từ khi ban hành, chính sách thuế đối ứng của Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến nhiều quốc gia trên thế giới. Với vai trò là thị trường xuất khẩu lớn nhất, có kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt 119,5 tỷ USD, chiếm 29,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, chính sách thuế đối ứng của Mỹ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp xuất khẩu (DNXK) hàng hoá, mà còn tác động đến các doanh nghiệp dịch vụ (DNDV) logistics Việt Nam - bộ phận doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ dòng dịch chuyển của hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trước bối cảnh đó, các DNDV logistics Việt Nam cần điều chỉnh chiến lược và có giải pháp ứng phó phù hợp với điều kiện thuế quan mới của Mỹ.
KHÁI QUÁT VỀ THUẾ ĐỐI ỨNG THEO QUY ĐỊNH CỦA WTO
Thuế đối ứng
Trong thương mại quốc tế, thuế đối ứng (Reciprocal/Countervailing tariff) là thuế nhập khẩu mà một quốc gia áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ quốc gia khác, khi cho rằng quốc gia này đã thực hiện hành động thương mại không công bằng, như: trợ cấp vượt mức, bán phá giá hoặc áp đặt hàng rào kỹ thuật gây bất lợi... đối với hàng hoá của họ. Như vậy, về bản chất, thuế đối ứng không phải là một loại thuế quan thông thường, mà là một biện pháp ứng phó khi cần thiết trước các hành vi thương mại bị xem là không công bằng.
Cơ sở pháp lý quốc tế
Cơ sở pháp lý quốc tế của thuế đối ứng được thể hiện trong Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối ứng (Agreement on Subsidies and Countervailing Measures - SCM Agreement) của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO). Theo đó, một quốc gia thành viên của WTO chỉ được phép áp dụng thuế đối ứng với một quốc gia khác sau khi đã tiến hành điều tra kỹ lưỡng và có bằng chứng xác định được 3 yếu tố quan trọng sau đây: (1) Có bằng chứng cho thấy chính phủ nước xuất khẩu đã trợ cấp cho doanh nghiệp; (2) Ngành sản xuất các sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu phải chịu hoặc bị đe doạ thiệt hại đáng kể; (3) Có mối liên hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa đang gánh chịu.
Đặc điểm pháp lý và kinh tế của thuế đối ứng
Thuế đối ứng có nhiều điểm khác biệt với các loại thuế quan và biện pháp phòng vệ thương mại thông thường, đó là: (1) Tính phòng vệ và khắc phục: Thuế đối ứng được thực hiện nhằm khôi phục lại điều kiện cạnh tranh công bằng cho nước nhập khẩu, mang tính chất phòng vệ chứ không phải để trừng phạt hay tấn công; (2) Tính điều kiện và tạm thời: Việc áp dụng thuế đối ứng phụ thuộc vào kết quả điều tra và bằng chứng có được; hiệu lực của thuế đối ứng là 5 năm, trừ khi cơ quan có thẩm quyền xác định rằng việc chấm dứt thuế đối ứng có thể dẫn đến tái diễn trợ cấp; (3) Tính đặc thù: Thuế đối ứng chỉ áp dụng cho các sản phẩm cụ thể của nhà xuất khẩu cụ thể của một quốc gia cụ thể, không phải thuế áp dụng cho tất cả hàng hoá đến từ một quốc gia xuất khẩu.
Tác động kinh tế - xã hội của việc áp thuế đối ứng
Tác động kinh tế - xã hội của việc áp thuế đối ứng khá phức tạp, ảnh hưởng tới nhiều đối tượng ở cả quốc gia bị áp thuế và quốc gia áp thuế.
Đối với quốc gia bị áp thuế, các tác động chủ yếu mang tính tiêu cực ở cả phạm vi quốc gia, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Cụ thể, quốc gia bị áp thuế đối ứng sẽ bị tổn hại uy tín thương mại do bị xem là có hành vi thương mại không công bằng; giảm kim ngạch xuất khẩu dẫn đến ảnh hưởng cán cân thương mại và dự trữ ngoại hối, giảm tăng trưởng kinh tế. DNXK của quốc gia bị áp thuế sẽ bị thu hẹp thị trường xuất khẩu, tăng chi phí, giảm doanh thu và lợi nhuận. Người tiêu dùng tại quốc gia bị áp thuế bị tác động gián tiếp như giảm thu nhập, tăng tình trạng thất nghiệp.
Về phía quốc gia áp thuế, thuế đối ứng có thể giúp bảo vệ ngành sản xuất nội địa, ổn định thị trường lao động, tăng nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, biện pháp này đồng thời cũng tạo ra các tác động tiêu cực, như: đối diện với nguy cơ căng thẳng thương mại khi quốc gia bị áp thuế tiến hành các biện pháp trả đũa; gây bóp méo phân bổ nguồn lực khi các ngành sản xuất kém hiệu quả trong nước vẫn được duy trì. Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trong nước, thuế đối ứng có thể giúp các doanh nghiệp này tăng khả năng cạnh tranh về giá so với hàng hoá nhập khẩu, có cơ hội giành lại thị phần, tăng sản lượng và lợi nhuận. Tuy nhiên, những doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu đầu vào nhập khẩu sẽ bị tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu, nên sẽ phải tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế, gây gián đoạn chuỗi cung ứng. Đối với người tiêu dùng tại quốc gia áp thuế, tác động là hoàn toàn tiêu cực khi họ bị giảm sự lựa chọn và phải mua hàng hoá với mức giá cao hơn đối với cả hàng hoá nhập khẩu (do bị áp thuế) và hàng hoá trong nước (do giảm cạnh tranh).
DIỄN BIẾN THUẾ ĐỐI ỨNG CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM ĐẾN NAY
Ngày 2/4/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố Sắc lệnh áp thuế đối ứng đối với tất cả hàng hoá nhập khẩu từ các đối tác thương mại của nước này. Theo đó, Mỹ sẽ áp các mức thuế đối ứng như là một loại thuế bổ sung bên cạnh các loại thuế, phí và khoản thu khác hiện đang áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước này.
Ngày 9/4/2025, chính sách thuế đối ứng của Mỹ chính thức có hiệu lực, trong đó áp mức thuế lên đến 46% đối với hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam. Tuy nhiên, ngày 10/4/2025, Tổng thống Mỹ tuyên bố hoãn chính sách này và mở ra giai đoạn đàm phán kéo dài 90 ngày (đến ngày 9/7/2025). Trong thời gian chờ đàm phán, Việt Nam cùng 55 quốc gia khác (trừ Trung Quốc) vẫn chịu mức thuế đối ứng 10%. Ngày 7/7/2025, Tổng thống Mỹ gửi thông báo mức thuế đối ứng mới, dao động từ 25%-40% tới 14 quốc gia. Ngày 9/7/2025, Mỹ tiếp tục công bố thêm mức thuế đối ứng mới với 8 quốc gia, trong đó cao nhất là mức thuế suất 50% (Hình 1).
Hình 1: Diễn biến thuế đối ứng của Mỹ từ ngày 2/4/2025 đến nay
![]() |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Riêng đối với Việt Nam, ngày 2/7/2025, Tổng thống Mỹ chia sẻ thông tin đã đạt được thoả thuận với Việt Nam trong việc áp mức thuế đối ứng 20% đối với tất cả hàng hoá xuất khẩu vào Mỹ và mức thuế 40% đối với mọi hình thức trung chuyển. Đổi lại, Việt Nam sẽ thực hiện một thoả thuận chưa từng có trong tiền lệ, đó là trao cho Mỹ quyền tiếp cận toàn diện. Nghĩa là Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường cho tất cả sản phẩm của Mỹ với mức thuế bằng 0. Cho đến nay, ngoài các con số 0%, 20% và 40% như Tổng thống Mỹ Donald Trump thông báo, chưa có thông tin chính thức nào từ Chính phủ của cả Việt Nam và Mỹ. Tuy nhiên, nếu mức thuế 20% này được áp đồng loạt cho tất cả các hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử có một biện pháp áp thuế không phân biệt chủng loại hàng hoá.
Bên cạnh đó, đến nay, phía Mỹ cũng chưa đưa ra cách diễn giải cụ thể nào về hàng hoá chuyển tải hay trung chuyển (transhipping) qua Việt Nam. Nếu hiểu hàng hoá này là những hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, sau đó được sơ chế, chế biến đơn giản như thay đổi bao bì, nhãn mác… để xuất khẩu sang Mỹ thì việc áp thuế 40% được xem là phù hợp. Nhưng nếu bao gồm cả những hàng hoá sử dụng nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu, trải qua quá trình gia công, chế biến đáng kể tại Việt Nam (như đa số sản phẩm dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử…) thì sẽ là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Ngoài ra, đứng dưới góc độ của hoạt động xuất - nhập khẩu và logistics, hàng chuyển tải/trung chuyển (transhipped goods) là hàng dừng lại tại cửa khẩu, cảng biển, cảng hàng không để chuyển sang một phương tiện hoặc phương thức vận tải khác. Trong trường hợp này, về nguyên tắc, Việt Nam chỉ là một địa điểm mà hàng đi qua trong hành trình vận chuyển (cảng Việt Nam thu phí hàng quá cảnh và ngành logistics Việt Nam được hưởng lợi). Khi đó, thuế 40% này sẽ do chủ hàng nước ngoài chi trả cho Mỹ và đồng nghĩa với việc thuế đối ứng 40% đối với hàng hoá chuyển tải/trung chuyển qua Việt Nam sẽ khiến cho các chủ hàng nước ngoài không lựa chọn các cảng biển, cảng hàng không của Việt Nam để trung chuyển nữa, gây bất lợi cho sự phát triển của ngành logistics nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, so với 22 quốc gia mà Mỹ đã công bố mức thuế mới trong ngày 7 và 9/7/2025, đặc biệt là so với các quốc gia cạnh tranh chính với hàng hoá Việt Nam như Thái Lan, Indonesia, Bangladesh và Campuchia (đều bị áp mức thuế > 30%) thì mức thuế 20% có thể sẽ tạo ra lợi thế cho Việt Nam (Hình 2).
Hình 2: Tương quan mức thuế đối ứng của Việt Nam và 22 quốc gia đã được công bố tính đến ngày 9/7/2025
![]() |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG THUẾ ĐỐI ỨNG CỦA MỸ ĐẾN NGÀNH LOGISTICS CỦA VIỆT NAM
Tác động thuế đối ứng đối với xuất - nhập khẩu của Việt Nam
Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam năm 2024 đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu lần đầu tiên vượt mốc 400 tỷ USD, đạt 405, 53 tỷ USD, tăng 14,3%; trong đó, Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 119,5 tỷ USD, chiếm 29,5% (Hình 3).
Hình 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu (trái) và tỷ trọng các thị trường xuất khẩu chính (phải) của Việt Nam năm 2024
![]() |
Nguồn: Theo số liệu của Cục Hải quan, Bộ Tài chính
Trong số các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ, dệt may là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ chính sách thuế đối ứng, vì đây là thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam và cũng là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ ba sang quốc gia này. Theo số liệu của cơ quan Hải quan, năm 2024 kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Mỹ đạt 16,15 tỷ USD, chiếm 43,6% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may và chiếm 13,8% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Do đó, theo Hiệp hội Dêt may Việt Nam (VITAS), nếu không có biện pháp ứng phó kịp thời, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ trong năm 2025 có thể giảm từ 20%-30%, gây thiệt hại khoảng 5-7 tỷ USD.
Hình 4: Tỷ trọng kim ngạch của một số ngành hàng chính trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ (trái) và tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của từng ngành hàng (phải) năm 2024
![]() |
Nguồn: Theo SHS Research, Cục Hải quan, VIS Rating
Đối với ngành hàng giày dép, Mỹ là thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch năm 2024 khoảng 8,28 tỷ USD, chiếm 36,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng giày dép. Theo Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam (LEFASO), các doanh nghiệp da giày Việt Nam chủ yếu gia công cho các thương hiệu lớn của Mỹ nên biên độ lợi nhuận (4%-7%) thấp hơn rất nhiều so với các khâu thiết kế và thương hiệu (20%-40%); do đó, khó có khả năng chịu thêm áp lực gia tăng về chi phí.
Đối với các sản phẩm gỗ, Mỹ là thị trường chiếm tới 55,7% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ năm 2024, với 9,06 tỷ USD và gần bằng 8% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Việt Nam. Các mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ là đồ gỗ nội ngoại thất (89,9%), có giá trị gia tăng cao hơn nhiều so với sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường lớn khác như Nhật bản (dăm gỗ, viên nén gỗ), Hàn Quốc (viên nén gỗ), Trung Quốc (dăm gỗ). Tuy nhiên, trước đây sản phẩm gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng mức thuế 0%, tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá và Việt Nam áp thuế cho sản phẩm nội thất nhập khẩu từ Mỹ là 25%, thì nay, nếu bị áp thuế đối ứng 20%, chi phí sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 1,8 tỷ USD mỗi năm, khiến giá sản phẩm gỗ tăng mạnh và giảm lợi thế cạnh tranh.
Đối với ngành hàng thuỷ sản, Mỹ là thị trường truyền thống và khá ổn định với tỷ trọng trung bình khoảng 18,8% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong 10 năm qua. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đạt 1,82 tỷ USD, chiếm khoảng 1,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Trong đó, 70% kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ là thuỷ sản nuôi trồng (tôm thẻ 35%; tôm sú 3,9%; cá tra 19%…) và khoảng 30% còn lại là các loại thuỷ sản khác (cá ngừ 21,3%; ghẹ 3,5%...). Nếu chính sách thuế đối ứng 20% của Mỹ duy trì, tác động đối với ngành thuỷ sản của Việt Nam nhìn chung sẽ khá lớn. Tuy nhiên, các mặt hàng cá ngừ và tôm bị đánh giá là sẽ thiệt hại lớn hơn so với cá tra, bởi Mỹ là thị trường xuất khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam (chiếm khoảng 39,2% kim ngạch năm 2024) trong khi giá trị xuất khẩu sang EU - thị trường xuất khẩu cá ngừ lớn thứ 2 của Việt Nam (chỉ chiếm khoảng 19,9%) lại đang có xu hướng giảm dần. Tôm là mặt hàng có giá trị cao hơn so với cá tra lại đang chịu thêm mức thuế chống trợ cấp và chống bán phá giá nên có mức thuế cao hơn nhiều so với thuế áp với cá tra.
Tác động thuế đối ứng đối với ngành logistics của Việt Nam
Về thứ tự tác động đối với các loại hình dịch vụ logistics
Thuế đối ứng sẽ làm tăng chi phí xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang Mỹ, như: điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ, thuỷ sản... Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ lại chủ yếu thông qua các cảng biển; do đó, trước mắt, các cảng biển nước sâu tại Việt Nam có khả năng tiếp nhận trực tiếp tàu đi thẳng tới Mỹ là cảng Lạch Huyện (Hải Phòng) và cảng Cái Mép - Thị Vải (TP. Hồ Chí Minh) sẽ chịu ảnh hưởng ngay lập tức và mạnh mẽ nhất từ thuế đối ứng (Bảng).
Bảng: Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ thông qua các cảng biển năm 2024
| Chỉ tiêu | Cảng Cái Mép - Thị Vải | Cảng Lạch Huyện |
| Tổng sản lượng xuất khẩu (Triệu TEUs) | 10,8 | 1,6 |
| Tổng sản lượng xuất khẩu sang Mỹ (Triệu TEUs) | 4,0 | 0,9 |
| Tỷ lệ hàng xuất khẩu sang mỹ (%) | 37,04 | 56,25 |
| Số chuyến vận chuyển thẳng tới Mỹ/tuần | 24 | 7 |
Nguồn: Theo SHS Research, 2024
Thuế đối ứng của Mỹ cũng sẽ gây tác động dây chuyền đến các lĩnh vực dịch vụ logistics khác, như: vận tải đường thuỷ, đường bộ nội địa; bốc dỡ, neo đậu, kho bãi… Đối với vận tải thuỷ nội địa, các nhóm cảng sông tại TP. Hồ Chí Minh vốn đóng vai trò là điểm kết nối hàng hoá từ các khu công nghiệp, khu kinh tế phía Nam đến cảng Cái Mép - Thị Vải cũng sẽ chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi của sản lượng container xuất khẩu đi Mỹ dưới tác động của thuế đối ứng. Tương tự, các cảng sông ở khu vực Hải Phòng cũng chịu tác động nhưng có thể ở mức thấp hơn do chủ yếu phục vụ hàng hoá xuất khẩu sang các nước châu Á. Nhu cầu về các loại hình dịch vụ logistics khác cũng sẽ phụ thuộc vào mức thuế đối ứng đàm phán được, lộ trình áp dụng và thậm chí cả năng lực cạnh tranh của các DNXK của Việt Nam.
Về mức độ tác động theo các mức thuế đối ứng khác nhau
Nếu Mỹ duy trì mức thuế đối ứng 20% như thông báo ngày 2/7/2025 thì sẽ không gây bất lợi quá lớn cho Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh do mức thuế này thấp hơn (Hình 2). Nguy cơ mất đơn hàng sẽ giảm, thậm chí Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc dịch chuyển đơn hàng khỏi các quốc gia bị Mỹ áp thuế đối ứng cao hơn. Khi đó, dự báo sản lượng hàng hóa thông qua các cảng biển Việt Nam có thể vẫn được duy trì hoặc tăng trưởng ở mức độ nhất định, kéo theo nhu cầu về dịch vụ logistics không bị ảnh hưởng quá nặng nề.
Ngược lại, nếu Mỹ áp dụng mức thuế cao (> 20% hoặc 46% như thông báo ban đầu) sẽ khiến hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tăng giá, đồng thời giảm nhu cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ, ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam. Khi đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ giảm, sản lượng hàng hoá qua các cảng lớn vốn phụ thuộc vào tuyến vận tải châu Á - Mỹ sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực, chẳng hạn như: tần suất tàu giảm; doanh thu từ các dịch vụ bốc dỡ, lưu kho, neo đậu, vận chuyển nội địa vì thế cũng giảm mạnh. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa vận hành cảng, vừa sở hữu tàu container và cung ứng dịch vụ logistics sẽ chịu áp lực kép từ cả sụt giảm về sản lượng và chi phí vận tải, lưu kho gia tăng.
Bên cạnh đó, mức thuế đối ứng cao áp dụng cho hàng loạt các đối tác thương mại của Mỹ sẽ tạo ra sự xáo trộn lớn về luồng hàng trên toàn cầu, khiến các hãng tàu như Maersk, CMA CGM, MSC… phải tái cấu trúc lại mạng lưới, điều chỉnh lịch trình vận chuyển đến các cảng, cắt giảm hoặc hợp nhất các tuyến để giảm chi phí… Điều này đòi hỏi các DNDV logistics Việt Nam cũng phải tái cấu trúc lại mạng lưới vận hành, điều phối lại tuyến đường, phân bổ lại phương tiện vận tải phù hợp để có thể cung ứng dịch vụ logistics cho khách hàng.
Ngoài ra, theo thông báo của Mỹ, mức thuế đối ứng cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam sẽ khác với hàng hoá chỉ chuyển tải/trung chuyển qua Việt Nam, từ đó sẽ khiến các nhà nhập khẩu tại Mỹ gia tăng kiểm soát về chứng từ hàng hoá, kéo theo các đơn hàng có thể phải kéo dài thời gian kiểm tra, lưu trữ để xác minh hoặc thậm chí bị trả về… Do đó, các DNDV logistics Việt Nam phải đối diện với sự gia tăng của các rủi ro pháp lý và thủ tục hải quan cùng với các nhà xuất khẩu Việt Nam.
GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ LOGISTICS VIỆT NAM
Trên cơ sở phân tích tình hình thực tế hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ các DNDV logistics Việt Nam chủ động ứng phó trước các quyết sách về thuế đối ứng của Mỹ như sau:
Một là, đồng hành cùng các chủ hàng trong đa dạng hoá thị trường xuất khẩu
Mỹ vốn là thị trường truyền thống và giữ vai trò then chốt đối với Việt Nam. Tuy nhiên, đã đến lúc các DNDV logistics Việt Nam cần đồng hành với các DNXK để mở rộng hơn nữa sang thị trường châu Âu (Đức, Anh, Hà Lan, Ý…), Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…), ASEAN, Ấn Độ, Úc, New Zealand... Việc dịch chuyển thị trường sẽ giúp cả DNXK và DNDV logistics Việt Nam phân bổ luồng hàng cân đối, giảm rủi ro khi có tác động thuế đột biến từ một thị trường; đồng thời khai thác hiệu quả cơ hội từ các hiệp định thương mại. Để đồng hành cùng các chủ hàng trong việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu đòi hỏi các DNDV logistics phải am hiểu sâu sắc về dịch vụ logistics cho các ngành hàng xuất khẩu chủ lực để trở thành nhà tư vấn cung cấp các giải pháp logistics tích hợp và chuyên sâu trong việc đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu, hỗ trợ DNXK tái cấu trúc chuỗi cung ứng và giảm thiểu thuế quan; liên kết chuỗi giá trị với DNXK để cùng phát triển.
Hai là, tái thiết kế và tối ưu hoá mạng lưới vận tải và kho bãi
Việc chuyển dịch thị trường của các DNXK cũng đòi hỏi DNDV logistics phải thay đổi toàn bộ lộ trình vận tải, lựa chọn cảng biển phù hợp, điều phối container... Do, đó, các DNDV logistics Việt Nam cần tái thiết kế mạng lưới kho trung chuyển, kho ngoại quan gần các khu vực thị trường mới; phát triển các tuyến dịch vụ tương ứng cho từng thị trường đã ký kết hiệp định thương mại; mở rộng hợp tác và tối ưu mạng lưới đối tác để nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng tính linh hoạt và lợi thế cạnh tranh.
Ba là, phát triển hệ sinh thái số thông qua ứng dụng công nghệ trong chuỗi dịch vụ
DNDV logistics Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống quản lý vận tải thông minh TMS, hệ thống quản lý kho hàng toàn diện WMS, hệ thống hải quan điện tử, theo dõi thời gian thực… để số hóa chứng từ, tự động hóa quy trình và tích hợp dữ liệu với DNXK, đối tác và các bên có liên quan. Các nền tảng và ứng dụng công nghệ này là yếu tố then chốt giúp DNDV logistics ứng phó linh hoạt với những thay đổi về đơn hàng, tuyến vận tải, điều kiện vận hành…; từ đó nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro, đảm bảo luồng hàng được thông suốt ngay cả trong giai đoạn thị trường bất ổn.
Bốn là, xây dựng thương hiệu thông qua giải pháp “logistics xanh” và hoạt động marketing
Hầu hết thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam đều có yêu cầu cao về chất lượng và tính bền vững. Do đó, bên cạnh quá trình chuyển đổi xanh của các DNXK, bản thân các DNDV logistics cũng cần xanh hóa hoạt động vận tải, kho bãi, bao bì, hệ thống thông tin… để cùng với khách hàng tạo ra một chuỗi cung ứng xanh hoàn chỉnh; từ đó đáp ứng yêu cầu của thị trườngvà tận dụng ưu đãi. Bên cạnh đó, các DNDV logistics cũng cần đầu tư vào các giải pháp marketing nhằm nâng cao hình ảnh, xây dựng uy tín thương hiệu và thoát khỏi cạnh tranh về giá.
Năm là, tăng cường đào tạo nhân lực logistics đáp ứng yêu cầu mới
Tác động từ chính sách thuế mới của Mỹ sẽ thúc đẩy hình thành các tiêu chuẩn mới trong lĩnh vực logistics. Do đó, DNDV logistics Việt Nam cần nhanh chóng đào tạo đội ngũ nhân lực logistics am hiểu thị trường đa quốc gia, ứng dụng tốt công nghệ để quản lý rủi ro; xử lý tốt quy trình và chứng từ quốc tế liên quan đến chứng nhận nguồn gốc xuất xứ và các vấn đề pháp lý khác để bảo vệ quyền lợi cho DNXK trước những thay đổi pháp lý trên toàn cầu.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Công Thương (2008). Hỏi đáp về Pháp luật chống trợ cấp của Việt Nam và WTO, Nxb Lao động Xã hội.
2. Nguyễn Hoài Chung (2025). Xuất khẩu và Logistics của Việt Nam hiện nay: Thách thức, cơ hội và giải pháp, Hội thảo của Hiệp hội Logistics TP. Hồ Chí Minh.
3. SHS Research (2025). Báo cáo đánh giá ảnh hưởng thuế quan đối ứng lên các ngành cơ bản.
4. WTO (2008). Agreement on Subsidies and Countervailing Measures (SCM Agreement).
| Ngày nhận bài: 07/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 13/7/2025; Ngày duyệt đăng: 30/7/2025 |





Bình luận