TS. Bùi Thị Minh Tiệp

Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Hải Phòng

Email: tiepbtm@dhhp.edu.vn

Tóm tắt

Bài viết này kế thừa các nghiên cứu đi trước để nghiên cứu cho Việt Nam trong bối cảnh lực lượng lao động dồi dào của thời kỳ dân số vàng đang dần bước vào tuổi nghỉ hưu và sẽ ồ ạt chuyển sang tuổi nghỉ hưu trong một thời gian ngắn nữa, trong khi t suất sinh ngày cảng giảm - tức là số người đến tuổi lao động để bổ sung vào lực lượng “dân số vàng” ngày càng giảm. Thời kỳ dân số già hóa đang diễn ra và sẽ chuyển sang dân số già với tốc độ rất nhanh. Hệ thống an sinh xã hội quá tải, phúc lợi hưu trí của người lao động (NLĐ) đứng trước nhiều thách thức. Bài viết cũng đưa ra một góc nhìn tổng quan về các vấn đề trên và đề xuất một số ý kiến với góc nhìn đa chiều và toàn diện hơn, hướng tới phát triển bền vững.

Từ khóa: Biến đổi cơ cấu tuổi dân số, tăng trưởng kinh tế, phúc lợi hưu trí, phát triển bền vững

Summary

This article inherits previous studies, studying the case study of Vietnam in the context of the abundant labor force of the golden population period gradually entering retirement age will massively move to retirement age in a short time, while the birth rate is decreasing - that is, the number of people reaching working age to supplement the "golden population" force is decreasing. The aging population period is taking place and will move to an aging population at a very fast rate. The social security system is overloaded, and the workers' retirement benefits face many challenges. The article also provides an overview of the above issues and proposes some opinions with a more multidimensional and comprehensive perspective toward sustainable development.

Keywords: Changes in population age structure, economic growth, retirement benefits, sustainable development

ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI CƠ CẤU TUỔI DÂN SỐ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

Dân số của mỗi quốc gia đều có sự biến động qua các thời kỳ lịch sử, biến động đó không chỉ về số dân mà còn về cơ cấu (cơ cấu nam-nữ, cơ cấu độ tuổi, cơ cấu theo trình độ…). Cơ cấu dân số theo độ tuổi tuổi dân số (thường gọi là “cơ cấu tuổi dân số” - CCTDS), là tỷ trọng dân số ở từng độ tuổi so với tổng số dân. Xuất phát từ quan điểm mỗi độ tuổi khác nhau, con người có những hành vi kinh tế khác nhau, các nhà khoa học chứng mình được rằng, biến đổi CCTDS có tác động lớn đến quá trình phân bổ nguồn lực, từ đó tác động tới về kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi nước. Biến đổi CCTDS sẽ có những thay đổi về sản xuất, tiêu dùng, từ đó tác động tới tăng trưởng kinh tế (TTKT). Nước nào có số dân trong độ tuổi trẻ em chiếm tỷ trọng cao, thì đất nước sẽ cần nhiều nguồn lực hơn để chi tiêu cho nuôi dưỡng, giáo dục và y tế. Tương tự như vậy, một nước có dân số trong tuổi lao động chiếm tỷ trọng lớn, thì đất nước đó có được cơ hội thúc đẩy TTKT tế nhờ nguồn nhân lực dồi dào, tăng tiết kiệm và tăng đầu tư, hệ thống tài chính vững vàng hơn. Đối với đất nước có tỷ lệ người cao tuổi (NCT) cao trong cơ cấu dân số, thì sẽ phải chi tiêu nhiều hơn cho chăm sóc y tế, tiêu dùng tăng và các vấn đề về an sinh xã hội cần được giải quyết thỏa đáng.

Trong các công trình nghiên cứu về tác động của biến đổi CCTDS đến tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới, các nhà khoa học đã đưa ra các minh chứng thuyết phục cho 2 quan điểm về lợi tức nhân khẩu học thứ nhấtlợi tức nhân khẩu học thứ hai (Faruqee và Mühleisen, 2001; Andrew Mason và Ronald Lee (2004); Prskawetz và Lindh, 2007) diễn ra trong quá trình biến đổi CCTDS. Cụ thể là, một quốc gia sẽ thu được lợi tức nhân khẩu học thứ nhất khi dân số trong độ tuổi lao động (bộ phận dân số tạo thu nhập nhiều hơn tiêu dùng) của nước đó tăng mạnh và tốc độ tặng lớn hơn so với tốc độ tăng của dân số ngoài độ tuổi lao động (được hiểu là người cao tuổi và trẻ em - bộ phận dân số tiêu dùng nhiều hơn), từ đó làm tăng thu nhập bình quân đầu người, thúc đẩy TTKT. Mặt khác, quá trình biến đổi về CCTDS ở một nước cũng sẽ dẫn đến lợi tức nhân khẩu học thứ hai, nhưng để có thể thu được lợi tức nhân khẩu học thứ 2 đòi hỏi sự chú ý và đồng bộ hơn của các chính sách của nhà nước. Lợi tức nhân khẩu học thứ 2 là những lợi ích mà đất nước có thể thu được do những dự báo về dân số già hóa làm gia tăng động lực tiết kiệm và tích lũy vốn trong nền kinh tế, từ đó làm gia tăng số lượng và tỷ lệ những người có thu nhập cao thúc đẩy việc tiêu dùng các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất, cũng như làm tăng nguồn lực vốn cho sản xuất. Như vậy, một đất nước đứng trước các dự báo về dân số già hóa có thể đưa ra những chính sách phù hợp thúc đẩy gia tăng tiết kiệm cho tuổi già, tăng đầu tư dài hạn để có tài chính vững vàng cho hưu trí, hệ thống an sinh xã hội được chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn già hóa dân số, thì quốc gia đó không những tránh được các hệ lụy từ một dân số già, mà còn có thể chuyển đến một giai đoạn dân số già khỏe mạnh, giàu có và hơn thế nữa là một xã hội phồn thịnh.

Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 2019, tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984 người; trong đó, khoảng 69% là dân trong độ tuổi lao động. So với thế giới, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 và đứng thứ 3 so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hơn 20 năm qua là khoảng 1,12%, trong đó tỷ lệ tăng dân số cao tuổi tăng mạnh trong những năm gần đây, tỷ lệ dân số trong tuổi lao động tăng cao trong những năm qua nhưng tốc độ tăng giảm dần trong những năm gần đây, trong khi đó tỷ trọng dân số trẻ em không tăng. Việt Nam hiện tại vẫn trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng và đồng thời đã xuất hiện xu hướng già hóa dân số với tốc độ già hóa nhanh.

Hình 1: Tháp dân số dự báo của Việt Nam giai đoạn 2014-2049

Biến đổi cơ cấu tuổi dân số, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi hưu trí ở Việt Nam

Nguồn: Số liệu dự báo dân số của GSO và UNFPA (2022)

Số liệu (Hình 1) cho thấy, tháp dân số năm 2014 và 2049 thể hiện rõ chiều giảm xuống của nhóm dân số trẻ em và sự gia tăng với tốc độ ngày càng lớn của dân số cao tuổi. Với xu hướng này, giai đoạn dân số vàng sẽ kết thúc sau khoảng 10-15 năm nữa và khi đó Việt Nam chính thức chuyển sang giai đoạn dân số già khi lực lượng lao động ồ ạt bước vào tuổi nghỉ hưu. Tuổi già đồng nghĩa với thu nhập giảm mạnh do không còn đi làm tạo thu nhập hoặc do sức khỏe yếu đi không còn khả năng lao động tạo thu nhập, đồng thời các khoản chi phí y tế, tiêu dùng tăng lên. Đất nước cũng phải chi phí nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe NCT với các chế độ phúc lợi xã hội. Đồng thời, chúng ta đứng trước thách thức về nguồn nhân lực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, hệ thống bảo trợ người cao tuổi trở nên quá tải, nhiều vấn đề an sinh xã hội trong đó tài chính hưu trí là vấn đề nghiêm trọng.

Hình 2: Tỷ lệ dân số cao tuổi của Việt Nam từ năm 1979 đến năm 2049

Biến đổi cơ cấu tuổi dân số, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi hưu trí ở Việt Nam

Nguồn: GSO (2022)

Tốc độ già hóa của dân số Việt Nam diễn ra nhanh hơn so với tốc độ già hóa của nhiều nước trên thế giới, thời gian cho việc chuẩn bị để ứng phó với dân số già của Việt Nam cũng rất ngắn. Nghiên cứu về biến đổi CCTDS ở các nước cho thấy, Pháp mất 115 năm để chuyển từ dân số bắt đầu già hóa sang dân số già, Thụy Điển mất 85 năm, Mỹ 35 năm, thì Việt Nam chỉ mất 20 năm (Giang Thanh Long, 2017). Hiện trạng này được tạo nên bởi 2 thành tố chính: (1) Tuổi thọ bình quân dân số Việt Nam tăng nhanh gấp khoảng 1,5 lần so với mức gia tăng tuổi thọ bình quân trên thế giới; (2) Tỷ suất sinh của dân số Việt Nam giảm mạnh. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 73,6 tuổi; trong đó tuổi thọ của nam giới là 71,0 tuổi và của nữ giới là 76,3 tuổi. Từ năm 1989 đến nay, tuổi thọ trung bình của Việt Nam liên tục tăng, từ 65,2 tuổi năm 1989 lên 73,6 tuổi năm 2019.

Sau năm 2030, sẽ có hơn 30% số hộ gia đình Việt Nam có NCT, ở các thành phố tỷ lệ này là 40%. Hiện nay, 73% NCT sống ở nông thôn và trong số đó 21% vẫn thuộc diện nghèo. Chỉ có chưa tới 17% NCT sống ở nông thôn được hưởng lương hưu, hơn 10% được hưởng trợ cấp, khoảng 70% NCT sống bằng nguồn hỗ trợ của con cháu hoặc các nguồn không ổn định khác (Giang Thanh Long, 2017). Mặt khác, ruộng đất ở nông thôn ngày càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa, năng suất lao động ở nông thôn cũng thấp, NLĐ ít có thu nhập tích lũy cho tuổi già.

HỆ THỐNG PHÚC LỢI HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM

Năm 1962, hệ thống phúc lợi hưu trí nằm trong hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt nam với các nội dung quan tâm đến NCT chính thức được thành lập. Trước năm 1995, mức hưởng hưu trí được xác định trước và chỉ dành cho NLĐ thuộc khu vực nhà nước (NN) tham gia, được nhiều cơ quan chức năng quản lý dưới sự giám sát của chính phủ. Mức hưu trí được hưởng dựa trên số năm đóng góp và thu nhập cơ sở - thường là dựa vào mức lương tại thời điểm NLĐ nghỉ hưu. Khoản này được chi trả từ quỹ BHXH và từ trợ cấp của chính phủ. Quỹ bảo hiểm do chính phủ quản lý và bảo trợ, và là một bộ phận của ngân sách NN. Trong gần 30 năm, đặc biệt trong những năm chiến tranh khốc liệt, hệ thống này đã đóng góp đáng kể trong việc ổn định thu nhập và đời sống của người tham gia. Tuy nhiên, sự phức tạp và những khó khăn nảy sinh từ việc quản lý hành chính và quản lý tài chính, cùng với đó là sự lớn mạnh nhanh chóng của các thành phần kinh tế tư nhân đã khiến Chính phủ phải cải cách hệ thống đó thành hệ thống hưu trí PAYG[1] vào trước năm 1995 và thành lập Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (VSI) cùng thời điểm đó để quản lý hệ thống dưới sự bảo trợ của chính phủ.

Chính sách bảo trợ xã hội đối với NCT và Luật NCT ở Việt Nam

Luật Người cao tuổi do Quốc hội ban hành, có hiệu lực ngày 01/7/2010. Luật Người cao tuổi quy định về quyền và nghĩa vụ của NCT; trách nhiệm của gia đình, của NN và của xã hội đối với việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò NCT.

Theo quy định của Luật Người cao tuổi năm 2009, NCT là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Tại điều 17, điều 18 của Luật này cũng đã quy định rõ về đối tượng được hưởng chính sách bảo trợ xã hội (BTXH) và quy định về chính sách BTXH với NCT được hưởng bảo hiểm y tế, được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng và hỗ trợ chi phí mai táng khi chết.

Hệ thống hưu trí Việt Nam

Hệ thống hưu trí của Việt Nam có sự cam kết mạnh mẽ của hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật và kinh tế đất nước có mức tăng trưởng khá ổn định với 2 hình thức tham gia là hưu trí bắt buộc và hưu trí tự nguyện. Quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành dựa trên sự đóng góp của người tham gia. Tuy nhiên, tính tuân thủ trong khi tham gia BHXH trong khu vực phi chính thức còn thấp và trong thời kỳ đại dịch Covid dẫn đến NLĐ mất việc làm, kinh tế bấp bênh, tỷ lệ rút BHXH 1 lần tăng, niềm tin và động lực đóng BHXH của người dân giảm mạnh.

Trong bối cảnh tuổi thọ của người nghỉ hưu ngày một tăng lên, sức khỏe của NCT ngày càng yếu và chi phí y tế, chi phí sinh hoạt có xu hướng tăng lên, NCT đứng trước nhiều thách thức. Vì vậy, để đảm bảo thu nhập khi về già được bền vững, xu hướng quốc tế là sử dụng hưu trí xã hội (hưu trí tư nhân) để đạt được hưu trí toàn dân và an sinh xã hội toàn dân.

Ở hầu hết các nước trên thế giới, hệ thống hưu trí được thực hiện theo theo cơ chế thực thu, thực chi (Pay as You Go - PAYG) đang dần được chuyển sang hệ thống hưu trí được tài trợ (hoàn toàn hoặc một phần) từ sự đóng góp tự nguyện của các cá nhân tham gia vào các chương trình hưu trí tư nhân. Sự ra đời của hệ thống hưu trí được tài trợ (funded pension system) này đã cho phép các quỹ hưu trí tự nguyện (hưu trí tư nhân – HTTN) tích lũy tài sản để đầu tư trên thị trường tài chính và tạo được nguồn thu nhập cho người nghỉ hưu. Tuy nhiên, sự phát triển của quỹ hưu trí tại Việt Nam đã được hơn 10 năm nhưng vẫn còn sơ khai, chưa phát triển tương xứng với nhu cầu xã hội.

Hình 3: Tỷ lệ Chương trình hưu trí tự nguyện của Việt Nam

Biến đổi cơ cấu tuổi dân số, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi hưu trí ở Việt Nam

Nguồn: Thông tư số 115/2013/TT-BTC

Theo đó, đối với các chương trình HTTN tại Việt Nam hiện nay mới chỉ được thực hiện theo quy định của Chính phủ và hầu hết thông qua các sản phẩm bảo hiểm HTTN (niên kim) do các công ty BHNT cung cấp.

Luật Người cao tuổi 2009 đã chỉ rõ: “NCT được hưởng bảo hiểm y tế, được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng và hỗ trợ chi phí mai táng khi chết; NCT thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, có nguyện vọng và được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội, thì được hưởng các chế độ: Trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng; Cấp tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt thường ngày; Được hưởng bảo hiểm y tế; Cấp thuốc chữa bệnh thông thường; Cấp dụng cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng; Mai táng khi chết.” Theo quy định này, mức trợ cấp xã hội hàng tháng được quy định rõ từng đối tượng NCT cụ thể, nhưng số tiền rất ít ỏi so với yêu cầu ngày càng gia tăng trong cuộc sống thực tế của NCT.

Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đến cuối năm 2016, chỉ có 13,3 triệu người đang tham gia BHXH bắt buộc và khoảng 200.000 người tham gia BHXH tự nguyện. Con số này mới chỉ tương đương 22% lực lượng lao động. Mặt khác, số người nhận lương hưu hàng tháng vào khoảng 2,3 triệu người, chỉ chiếm khoảng 23% dân số cao tuổi với mức hưởng bình quân là 3,7trđ/tháng – tương đương với khoảng 7 lần chuẩn nghèo chung ở giai đoạn 2010-2015 (Giang Thanh Long, 2017).

Với hệ thống hưu trí xã hội (NCT nhận trợ cấp hàng tháng) cũng còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ bao phủ của hệ thống này mới chỉ đạt khoảng 20%: Tính đến cuối năm 2016, có gần 110.000 người ở độ tuổi 60-79 và 1,9 triệu người ở độ tuổi từ 80 trở lên nhận trợ cấp hàng tháng. Vì thế, tỷ lệ bao phủ của hệ thống này cũng vào khoảng 20% dân số cao tuổi. Mục tiêu chính của hệ thống này là hỗ trợ NCT giảm bớt khó khăn và đảm bảo an sinh thu nhập. Mức hưởng tối thiểu là 270.000 đồng/người/tháng, nhưng mức này thực sự là rất thấp vì nó chỉ bằng 1/2 chuẩn nghèo chung giai đoạn 2010-2015.

Hiện nay, số lượng NCT là trên 12 triệu người, trong khi hệ thống hưu trí chưa bao phủ được một nửa, tức là còn khoảng 50% dân số cao tuổi không có chế độ hưu trí.

Cùng với sự biến đổi CCTDS của Việt Nam theo hướng già hóa dân số nhanh, chi phí dành cho chăm sóc y tế NCT cũng gia tăng và có sự thay đổi theo sự dịch chuyển của mô hình bệnh tật của nhóm dân số cao tuổi. NCT ở Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng dịch chuyển từ các bệnh lây nhiễm sang các bệnh không lây nhiễm và bệnh mạn tính. Điều đó đồng nghĩa với thời gian điều trị và chi phí điều trị dành cho NCT ngày càng tăng. Chi phí y tế trung bình dành cho khám chữa bệnh của một NCT ước tính cao gấp 7-8 lần so với một trẻ em. Tỷ lệ NCT ở Việt Nam chiếm hơn 10% dân số nhưng chi phí y tế dành cho người cao tuổi chiếm hơn 50% trong hệ thống y tế. Hệ thống y tế nói chung, hệ thống chăm sóc sức khỏe NCT và hệ thống lão khoa nói riêng, dù đã được đầu tư trong những năm gần đây nhưng chưa thể đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe của hàng chục triệu NCT ở hiện tại và số lượng NCT này càng ngày càng tăng với tốc độ tăng ngày càng nhanh.

Việt Nam đã nỗ lực triển khai trương trình “Bảo hiểm y tế toàn dân” trong những năm qua, tỷ lệ NCT tham gia BHYT tăng nhanh, trong đó NCT ở nông thôn có tỷ lệ tham gia BHYT thấp hơn so với khu vực thành thị. NCT có điều kiện kinh tế khá giả hơn hoặc sinh sống ở thành thị có tỷ lệ tham gia BHYT cao hơn so với NCT thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo hoặc sinh sống ở nông thôn. Người cao tuổi được chi trả tùy mức độ, tùy loại bệnh, tùy loại hình điều trị với mức chi trả cao nhất lên tới 88% chi phí y tế, đây là một sự hỗ trợ lớn từ chính sách an sinh xã hội dành cho NCT ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là các chi phí cơ bản trong chăm sóc y tế NCT, chất lượng dịch vụ y tế mà NCT có thể tiếp cận phụ thuộc nhiều vào khả năng tự chi trả khi sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh. NCT có điều kiện kinh tế tốt hơn có thể lựa chọn dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc y tế tốt hơn.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định chung cho những NLĐ trong khu vực công về số năm phải đóng BHXH cụ thể cho từng lĩnh vực, từng nhóm ngành nghề cụ thể và quy định rõ tỷ lệ hưởng lương hưu. Mức hưởng lương hưu tối đa của NLĐ là 75% của mức bình quân lương tháng đóng BHXH, tương ứng với tuổi nghỉ hưu là 55 đối với nữ và 60 đối với nam (độ tuổi này hiện nay đã được nới rộng theo lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu được Chính phủ thông qua), ngoại trừ một số trường hợp đặc thù về ngành nghề hoặc lĩnh vực làm việc của NLĐ, tuổi nghỉ hưu có thể thấp hơn hoặc cao hơn được quy định rõ trong Luật Bảo hiểm xã hội.

Lương hưu cơ bản của NLĐ được tính như sau:

Tiền lương hưu = Tỷ lệ hưởng x Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH

Trong đó:

- Với lao động nam: 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH tương ứng với 18 năm đóng BHXH, sau đó cứ mỗi năm tính thêm 2%.

- Với lao động nữ: 45% mức bình quân lương tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ mỗi năm tính thêm 2%.

Luật cũng quy định rõ, trường hợp NLĐ nghỉ hưu trước độ tuổi quy định, mức lương hưu hàng tháng của NLĐ đủ điều kiện nghỉ hưu trước tuổi được tính như người nghỉ hưu đủ tuổi, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%. Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 6 tháng, thì mức giảm là 1%, từ trên 06 tháng thì không giảm tỷ lệ phần trăm do nghỉ hưu trước tuổi.

Hưu trí cá nhân (tự nguyện)

Ngoài việc tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyên theo chương trình công, NLĐ đã có thêm lựa chọn về chế độ hưu trí cá nhân thông qua việc tham gia vào các chương trình bảo hiểm hưu trí hoặc các chương trình bảo hiểm khác có thể hỗ trợ cho NLĐ khi đến tuổi nghỉ hưu của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (BHNT).

Gần 30 năm phát triển ngành BHNT ở Việt Nam, hiện đã có 18 công ty BHNT cung cấp các gói bảo hiểm cho người dân, trong đó có các gói bảo hiểm hưu trí và các gói bảo hiểm thông thường nhưng có thể tích lũy cho hưu trí. Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các gói bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm linh hoạt bao gồm cả quyền lợi hưu trí có thể kể đến như: Prudential Việt Nam, Bảo Việt Nhân thọ, Manulife, AIA Việt Nam, Dai-ichi Việt Nam, PVI Sun Life (hiện nay là Sun Life Việt Nam).. Các công ty BHNT này đã được cấp phép của Bộ Tài chính và được phê duyệt các chương trình bảo hiểm phù hợp.

Hiện tại, do các quỹ HTTN tại Việt Nam trực thuộc và được quản lý bởi các công ty BHNT, do đó cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ HTTN cũng tương tự cơ cấu danh mục chung của các công ty BHNT với tính chất an toàn và tập trung chủ yếu vào tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và TPCP theo quy định về tỷ trọng phân bổ tài sản.

Nhìn chung, quỹ HTTN tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển sơ khai. Các công ty trong nước đã tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện nhưng số lượng vẫn còn hạn chế. Theo thống kê, đã có khoảng hơn 100 tập đoàn, tổng công ty, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nước ngoài… tham gia bảo hiểm hưu trí, tương ứng khoảng 60 nghìn NLĐ đang hưởng quyền lợi từ chương trình vào năm 2017. Để được cấp phép triển khai bảo hiểm hưu trí tự nguyện, doanh nghiệp bảo hiểm cần phải đáp ứng các điều kiện rất khắt khe về vốn, biên khả năng thanh toán, đồng thời cũng phải xây dựng hạ tầng công nghệ để có thể quản lý được hàng triệu tài khoản riêng lẻ… Những diễn biến và số liệu thống kê từ thị trường cho thấy cả NLĐ, doanh nghiệp tham gia và doanh nghiệp bảo hiểm còn e dè với việc tham gia quỹ hưu trí tự nguyện. Qua đó cho thấy khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện vẫn còn tương đối mới đối với thị trường, trong khi đó các cơ chế khuyến khích và hỗ trợ cho quỹ hưu trí tự nguyện còn chưa đáng kể, chưa tạo động lực cho thị trường phát triển.

Tuy nhiên, NLĐ vẫn có cơ hội gia tăng tài sản tích lũy cho hưu trí thông qua việc tham gia các hợp đồng bảo hiểm ở các công ty BHNT mà không nhất thiết phải là sản phẩm bảo hiểm hưu trí. Ngoài ý nghĩa về tương hỗ đối với dự phòng và an toàn tài chính cho người dân, một hợp đồng BHNT có thể coi là một sổ hưu chủ động thứ 2 dành cho NLĐ khi về già. Các công ty bảo hiểm đã không ngừng đổi mới và cải tiến sản phẩm, lợi ích của các gói bảo hiểm ngày càng trở nên cạnh tranh hơn và tạo được sự tin tưởng cho người tham gia bảo hiểm. Nhiều NLĐ đã tham gia các gói BHNT như thế này để gia tăng thêm nguồn dự phòng tài chính trước rủi ro của cuộc sống và gia tăng khoản dự phòng tài chính cho tuổi già. Đây cũng chính là một kênh tiết kiệm khá hiệu quả đi kèm với ý nghĩa của bảo hiểm mà người dân Việt Nam lựa chọn, chỉ một số tiền nhỏ hàng năm để đảm bảo hơn cho tuổi già hoặc rủi ro. Tuy nhiên, tỷ lệ người dân tham gia BHNT ở Việt Nam mới chỉ vào khoảng 10% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là khoảng 80%-90% và BHNT chỉ có thể tham gia khi còn khỏe mạnh và dưới 65 tuổi. Do vậy, dân số cao tuổi ở hiện tại và những người đã có bệnh lý nền hoặc không đủ điều kiện sức khỏe lại không thể lựa chọn kênh này để gia tăng dự phòng tài chính hưu trí.

KẾT LUẬN

Hệ thống hưu trí ở Việt Nam với 2 loại hình cơ bản là hưu trí bắt buộc và hưu trí tự nguyện, trong đó hưu trí bắt buộc dựa theo Quỹ BHXH, hưu trí tự nguyện dựa trên sự đóng góp của người tham gia có thể qua hệ thống của nhà nước hoặc tự nguyện tư nhân. Trong bối cảnh dân số Việt Nam già hóa với tốc độ già hóa nhanh, đặt hệ thống lương hưu công trước nhiều thách thức, NLĐ bước vào tuổi nghỉ hưu và trải nghiệm tuổi già với số năm sống thọ kéo dài kèm theo tình trạng sức khỏe yếu đi và các khoản chi phí tăng lên. Chính sách BHXH đã có những tác động vô cùng tích cực đối với đời sống người dân, chế độ lương hưu được quy định rõ ràng cho từng đối tượng hưởng; đặc biệt là bộ phận dân số cao tuổi, người già nghèo, dân tộc thiểu số... được hưởng các chế độ trợ cấp, được miễn đóng phí BHYT có ý nghĩa an sinh xã hội sâu sắc.

Tuy nhiên, dân số già hóa nhanh cùng với gánh nặng lên hệ thống tài chính hưu trí công cùng với xu thế phát triển khiến cho NLĐ tìm kiếm thêm sự lựa chọn tự nguyện để tích lũy thêm tài chính cho hưu trí. Các quỹ tương hỗ, đầu tư ủy thác, bảo hiểm hưu trí tự nguyện tư nhân, BHNT... là các kênh có thể hỗ trợ cho gánh nặng tài chính hưu trí quốc gia khi người dân tự nguyện lựa chọn tham gia để tăng thêm tài sản tích lũy hưu trí và dự phòng rủi ro cho bản thân và gia đình./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 115/2013/TT-BTC, ngày 20/8/2013 hướng dẫn việc triển khai bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện.

2. Giang Thanh Long, Phí Mạnh Phong (2017), Sử dụng dịch vụ và gánh nặng tài chính trong chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 12(475).

3. Giang Thanh Long, Phạm Thị Hồng Thắm, Phạm Lê Tuấn (2016), Bảo hiểm y tế trong chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 231.

4. Nguyễn Tiến Dũng, Phạm Ngọc Trâm và Phạm Tiến Minh (2015), Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện của cư dân TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Tập 18, Q4, 45-54.

5. Thùy Linh (2020), Chế độ hưu trí 2020: Điều kiện và cách tính lương hưu, truy cập từ https://luatvietnam.vn/bao-hiem/che-do-huu-tri-2020-563-25098-article.html.

6. Tổng cục Thống Kê, UNFPA (2016), Dự báo dân số Việt Nam 2014-2019, Nxb Thông tấn.

7. Trần Nguyễn Minh Hải (2019), Thực trạng hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam, truy cập từ https://thitruongtaichinhtiente.vn/thuc-trang-hoat-dong-cua-cac-quy-huu-tri-tu-nguyen-tai-viet-nam-25028.html.

Ngày nhận bài: 05/02/2025; Ngày phản biện: 15/02/2025; Ngày duyệt đăng: 24/02/2025


[1] PAYG (Pay-as-you-go) là hệ thống an sinh xã hội mà khoản tiền thu được hiện tại (hầu hết từ các khoản đóng góp, ví dụ như một phần nhất định trong tổng quỹ lương- được sử dụng để chi trả cho chi phí hiện tại)