TS. Trịnh Thị Thu Hằng

Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

TS. Phạm Thanh Sơn

Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt

Nghiên cứu đánh giá vai trò của kiều hối và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 2003-2023. Nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL với kiểm định giới hạn nhằm phân tích đồng thời tác động ngắn hạn và dài hạn. Kết quả cho thấy, Kiều hối có tác động tích cực đến Tăng trưởng kinh tế ở cả ngắn hạn và dài hạn, trong khi FDI chỉ mang lại hiệu quả ngắn hạn và kém bền vững hơn về dài hạn. Nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của năng lực hấp thụ vốn và chất lượng thể chế trong việc tối ưu hóa tác động của các dòng vốn quốc tế, đồng thời đề xuất cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng FDI, định hướng kiều hối vào các hoạt động sản xuất, đổi mới và phát triển nguồn nhân lực để thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Từ khóa: ARDL, FDI, hồi hương, kiều hối, tăng trưởng kinh tế

Summary

This research evaluates the role of remittances and foreign direct investment (FDI) in Viet Nam's economic growth during the period 2003-2023. The research employs the ARDL model with a bounds test to analyze both short-term and long-term effects simultaneously. The results show that remittances have a positive impact on economic growth in both the short and long term, while FDI yields only short-term benefits and is less sustainable in the long run. The research emphasizes the importance of capital absorption capacity and institutional quality in optimizing the impact of international capital flows. It also proposes improving the investment environment, enhancing the quality of FDI, and directing remittances toward production activities, innovation, and human resource development to promote sustainable growth.

Keywords: ARDL, FDI, repatriation, remittances, economic growth

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, di cư được xem là một xu hướng quan trọng góp phần nâng cao kỹ năng lao động, chất lượng sống và cải thiện phúc lợi xã hội. Kiều hối từ người di cư được kỳ vọng là nguồn ngoại tệ đáng kể, hỗ trợ chi tiêu, đầu tư và tăng trưởng kinh tế quốc gia. Việt Nam được xếp trong nhóm các nền kinh tế mới nổi có lượng kiều hối cao trên thế giới cùng với khả năng thu hút mạnh mẽ các dòng vốn đầu tư như FDI. Năm 2024, tổng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đạt mức 16 tỷ USD, trong khi nguồn vốn đầu tư FDI đạt 25,35 tỷ USD (World Bank, 2024), góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, kiều hối và FDI không chỉ đóng vai trò là nguồn ngoại tệ quan trọng hỗ trợ cân đối vĩ mô, mà còn thúc đẩy đầu tư, tiêu dùng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo (Mostafa và Wadud, 2024; Zardoub, 2023). Tuy nhiên, các dòng vốn này cũng đặt ra thách thức đối với ổn định kinh tế vĩ mô, hiệu quả sử dụng nguồn lực và phát triển bền vững. Nghiên cứu của Catrinescu và cộng sự (2009) cho rằng, kiều hối có thể gây ra “căn bệnh Hà Lan” khi lợi ích chủ yếu tập trung vào hộ gia đình thay vì nền kinh tế, trong khi To và cộng sự (2019) cũng chỉ ra rằng, FDI có thể làm gia tăng lượng khí thải, dẫn đến suy thoái môi trường. Tác động của kiều hối và FDI đối với tăng trưởng kinh tế có sự khác biệt giữa các quốc gia. Việc hiểu rõ những tác động này sẽ giúp nâng cao nhận thức về vai trò của các dòng vốn, từ đó xây dựng chính sách phù hợp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Tại Việt Nam, phần lớn các nghiên cứu trước đây chủ yếu phân tích tác động riêng lẻ của từng kênh tài chính, trong khi kiều hối và FDI có mối quan hệ bổ trợ và tương tác chặt chẽ với nhau. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, việc đánh giá đồng thời tác động của kiều hối và FDI lên tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tại một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam là vô cùng cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Kiều hối và FDI đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiếp cận tài chính, thúc đẩy tích lũy đầu tư, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Trong đó, kiều hối có tính ổn định, không chỉ hỗ trợ tài chính hộ gia đình tiếp nhận từ việc đào tạo và phát triển kỹ năng nguồn nhân lực (De Mello Jr, 1997). Phần lớn các nghiên cứu hiện nay cũng cho thấy mối quan hệ tích cực giữa FDI và tăng trưởng kinh tế trong cả ngắn hạn và dài hạn đối với các quốc gia tiếp nhận. Nghiên cứu của Borensztein và cộng sự (1998) tại 69 quốc gia đang phát triển cho thấy FDI tác động mạnh đến việc thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt hiệu quả hơn tại những nền kinh tế có trình độ giáo dục cao. Nghiên cứu của Trevino & Upadhyaya (2003) và Obeng-Amponsah & Owusu (2025) tiếp tục khẳng định vai trò tích cực của FDI, đặc biệt tại các nền kinh tế mở lớn, tác động của FDI còn mạnh hơn cả các nguồn viện trợ khác.

Cùng với FDI, kiều hối ngày càng được xem là nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Kiều hối giúp nâng cao thu nhập hộ gia đình, mở rộng tiêu dùng, tích lũy tài sản, thúc đẩy tự tạo việc làm và đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ, đồng thời hỗ trợ đầu tư cho giáo dục và sức khỏe, từ đó nâng cao vốn nhân lực (Jushi và cộng sự, 2021). Ở các nền kinh tế phát triển, sự quay trở về của người di cư còn giúp chuyển giao tri thức, kỹ năng quản lý, công nghệ mới và tạo cơ hội kinh doanh trong khu vực tư nhân (Akter và cộng sự, 2024). Ngoài ra, kiều hối cũng góp phần cân bằng cán cân thanh toán, gia tăng nguồn ngoại tệ phục vụ nhập khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô (Rahman và cộng sự, 2014). Tuy nhiên, việc phụ thuộc quá mức vào kiều hối có thể làm giảm động lực lao động, gia tăng bất bình đẳng, thậm chí có nguy cơ kéo dài tình trạng chảy máu chất xám và hạn chế tăng trưởng dài hạn (Montiel, 2009).

Theo United Nations (2024), Việt Nam liên tục nằm trong top 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới, đạt khoảng 14 tỷ USD năm 2023, tăng gấp gần 7 lần so với năm 2003. Về FDI, số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) cho thấy, vốn FDI thực hiện năm 2023 đạt 18,5 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay và gấp hơn 12 lần năm 2003. Sự tăng trưởng này phản ánh quá trình cải cách thể chế, hội nhập quốc tế và hoàn thiện môi trường đầu tư.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL chuỗi thời gian nhằm đánh giá và phân tích tác động của Kiều hối (REM) và FDI tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2003-2023. Bên cạnh 2 biến trung tâm là REM và FDI, mô hình tích hợp thêm các biến kiểm soát gồm: Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cung tiền M2, Chỉ số phát triển con người (HDI), Độ mở kinh tế (OPEN), Chi tiêu Chính phủ (GOV) và Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), nhằm giúp nhận diện rõ hơn các yếu tố cấu thành động lực tăng trưởng cho nền kinh tế cũng như làm rõ vai trò và mối quan hệ giữa các dòng vốn ngoại sinh và điều kiện kinh tế trong nước. Dữ liệu được thu thập từ Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính). Ngoài ra, nghiên cứu còn kiểm định các mối quan hệ phi tuyến và tương tác giữa REM và phát triển tài chính, nhằm làm rõ cơ chế mà qua đó các dòng vốn quốc tế có thể hỗ trợ hoặc thay thế lẫn nhau trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng (Nghiên cứu sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

Mô hình nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian của Việt Nam giai đoạn 2003-2023 để đánh giá tác động của các dòng vốn quốc tế và một số yếu tố vĩ mô tới tăng trưởng kinh tế. Biến phụ thuộc trong mô hình là GDP, được lấy logarit tự nhiên nhằm xử lý tính phân tán, giúp các hệ số hồi quy được diễn giải trực tiếp theo % thay đổi. Các biến độc lập bao gồm: REM, FDI, cung tiền M2, HDI, OPEN, GOV và lạm phát đo bằng CPI.

ln(GDPt) = β0 + β1ln(REMt) + β2ln(FDIt) + β3M2t + β4HDIt + β5OPENt

+ β6GOVt + β7CPIt + ɛt

Trong đó,

ln(GDPt) là logarit của GDP tại thời điểm t.

βi (i = 1…7) là hệ số tác động cần ước lượng.

ɛt là sai số ngẫu nhiên phản ánh các yếu tố ngoài mô hình.

Kiểm định tính dừng của chuỗi số liệu

Trong phân tích chuỗi thời gian, kiểm định tính dừng là điều kiện tiên quyết nhằm tránh hiện tượng hồi quy giả mạo. Do đó, nghiên cứu thực hiện kiểm định đơn vị gốc cho từng chuỗi số liệu, đồng thời sử dụng kiểm định Augmented Dickey-Fuller (ADF). Với mỗi biến, kiểm định được tiến hành tại cả cấp số gốc và sai phân bậc nhất. Kết quả kiểm định xác định rõ từng biến thuộc bậc tích hợp I(0) hay I(1). Các biến dừng ở bậc hai I(2) sẽ không được sử dụng trong mô hình, phù hợp với yêu cầu của phương pháp ARDL.

Mô hình ARDL và phân tích tác động ngắn hạn, dài hạn

Mô hình ARDL được lựa chọn để lượng hóa đồng thời cả tác động ngắn hạn và dài hạn của các biến độc lập đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Ưu điểm vượt trội của ARDL là có thể áp dụng cho các bộ dữ liệu có số quan sát nhỏ, đồng thời cho phép các biến trong mô hình có bậc dừng khác nhau (I(0) và I(1)). Dạng tổng quát của mô hình ARDL như sau:

Trong mô hình này, các giá trị trễ của biến phụ thuộc và biến độc lập được đưa vào để kiểm soát động lực nội tại và ảnh hưởng lan tỏa qua các giai đoạn. Việc xác định độ trễ tối ưu được tiến hành thông qua các tiêu chí lựa chọn mô hình như: Akaike (AIC), Schwarz (BIC), Hannan-Quinn (HQIC). Sau khi kiểm định đồng liên kết, mô hình ARDL được chuyển hóa về dạng sai phân có hiệu chỉnh sai số (ECM) nhằm phân tách tác động ngắn hạn và dài hạn như sau:

Trong đó, ECMt-1 là thành phần hiệu chỉnh sai số cân bằng dài hạn; các hệ số δj đại diện cho tác động ngắn hạn của các biến độc lập lên tăng trưởng kinh tế; hệ số λ phản ánh tốc độ điều chỉnh về trạng thái cân bằng dài hạn sau khi xảy ra cú sốc ngắn hạn.

Kiểm định nhân quả Granger

Để xác định chiều tác động giữa các biến, đặc biệt là mối quan hệ nhân quả giữa REM, FDI và tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu sử dụng kiểm định nhân quả Granger. Bản chất của kiểm định này là kiểm tra khả năng biến X dự báo biến Y dựa trên thông tin quá khứ. Cụ thể, kiểm định giả thuyết các hệ số của biến trễ X trong phương trình hồi quy Y bằng 0. Nếu bác bỏ giả thuyết, kết luận rằng biến X là nguyên nhân Granger của biến Y.

Việc xác định mối quan hệ nhân quả là cơ sở quan trọng để định hướng chính sách kinh tế, cũng như nhận diện vai trò động lực hay hệ quả của từng dòng vốn quốc tế đối với tăng trưởng.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thống kê mô tả

Bảng 1: Thống kê mô tả

Biến

Obs

Mean

Std. Dev.

Min

Max

GDP

21

2.11e+11

1.26e+11

3.96e+10

4.34e+11

REM

21

8.18e+09

3.34e+09

2.1e+09

1.4e+10

FDI

21

1.01e+10

5.44e+09

1.45e+09

1.85e+10

M2

21

21.8

9.47

11.9

49.1

HDI

21

0.677

0.0362

0.617

0.77

OPEN

21

147

20.3

114

187

GOV

21

8.85

2.46

5.47

14.6

CPI

21

6.8

5.31

0.631

23.1

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của nhóm tác giả

Kết quả thống kê mô tả (Bảng 1) cho các biến kinh tế vĩ mô quan trọng của Việt Nam giai đoạn 2003-2023 cho thấy các biến số đều có sự biến động đáng kể. GDP có giá trị trung bình ở mức 211 tỷ USD và có độ phân tán lớn qua các năm, phản ánh quá trình tăng trưởng kinh tế vượt bậc của Việt Nam. Trong khi đó, các dòng vốn quốc tế như: REM và FDI cũng ghi nhận giá trị trung bình lần lượt là 8.18 tỷ USD và 10.1 tỷ USD, đồng thời có sự dao động đáng kể giữa các năm thể hiện qua độ lệch chuẩn tương đối cao. Các yếu tố vĩ mô khác như: cung tiền M2, HDI, OPEN, GOV và CPI cũng cho thấy sự biến động qua các năm. Cung tiền M2 trung bình đạt 21.8%, trong khi HDI duy trì ở mức 0.677 và OPEN đạt trung bình 147%. GOV chiếm trung bình 8.85% GDP, còn CPI có mức trung bình 6.8% nhưng dao động khá mạnh giữa các năm. Sự biến động và chênh lệch giữa các giá trị nhỏ nhất và lớn nhất ở từng biến số phản ánh rõ nét quá trình thay đổi và phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Kiểm định tính dừng

Kết quả kiểm định tính dừng các biến số nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 2, sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị (ADF). Đây là phương pháp phổ biến nhằm xác định xem chuỗi dữ liệu có đặc tính dừng hay không trước khi tiến hành các phân tích kinh tế lượng tiếp theo. Kết quả cho thấy, chỉ có biến HDI và lnREM đạt tính dừng tại chuỗi gốc (I(0), với p-value < 0.05. Trong khi đó, hầu hết các biến còn lại như: M2, CPI, ln(GDP), ln(FDI), OPEN và GOV đều không dừng ở mức gốc mà chỉ đạt tính dừng sau khi lấy sai phân bậc nhất (I(1)). Sự xuất hiện của cả 2 loại biến dừng tại mức gốc (I(0)) và dừng tại sai phân bậc nhất (I(1)) cho thấy bộ dữ liệu đáp ứng được yêu cầu để áp dụng mô hình ARDL. Đây là ưu điểm của mô hình ARDL, vì phương pháp này có thể xử lý đồng thời các biến với bậc tích hợp khác nhau mà không cần tất cả các biến đều phải dừng tại cùng một bậc. Do đó, kết quả kiểm định tính dừng bằng ADF là cơ sở quan trọng, đảm bảo tính hợp lý khi lựa chọn mô hình ARDL cho phân tích tác động của các yếu tố vĩ mô tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Bảng 2: Kiểm định tính dừng ADF

Biến

ADF Statistic

P-value

Độ trễ

M2

-1.612

0.7201

I(1)

HDI

-3.988

0.0237

I(0)

CPI

-1.887

0.6153

I(1)

lnGDP

-1.289

0.8431

I(1)

lnREM

-3.759

0.0387

I(0)

lnFDI

-3.046

0.1738

I(1)

OPEN

-1.665

0.6998

I(1)

GOV

-2.000

0.5725

I(1)

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của nhóm tác giả

Kiểm định đa cộng tuyến

Kết quả kiểm định đa cộng tuyến của các biến độc lập trong mô hình (Bảng 3) được thể hiện thông qua hệ số phóng đại phương sai (VIF). Theo kết quả ước lượng, tất cả các biến độc lập đều có giá trị VIF < 10, với VIF trung bình đạt 2.96. Đây là mức thấp so với ngưỡng cảnh báo thường được sử dụng trong các nghiên cứu, cho thấy hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập gần như không xuất hiện trong mô hình nghiên cứu. Cùng với đó, mặc dù biến dCPI có giá trị VIF cao nhất trong các biến (5.31), song vẫn nằm dưới ngưỡng 10, nghĩa là chưa phát sinh vấn đề nghiêm trọng về đa cộng tuyến. Các biến còn lại đều có giá trị VIF thấp, khẳng định tính độc lập giữa các biến giải thích trong mô hình. Do đó, mô hình hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về mặt kỹ thuật, cho phép thực hiện các bước ước lượng tiếp theo.

Bảng 3: Kiểm định đa cộng tuyến

Biến

VIF

dlnREM

2.88

dlnFDI

1.96

dM2

4.64

dHDI

1.57

dOPEN

2.37

dGOV

1.96

dCPI

5.31

VIF trung bình

2.96

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của nhóm tác giả

Mô hình ARDL

Kết quả ước lượng từ mô hình ARDL với các độ trễ tối ưu được trình bày tại Bảng 4. Dựa trên tiêu chí lựa chọn AIC, mô hình ARDL được xác định tối ưu là ARDL(1, 0, 1), trong đó các biến độc lập có độ trễ 0 hoặc 1 tùy theo kết quả lựa chọn mô hình. Các giá trị p-value của các kiểm định đều lớn hơn mức ý nghĩa, cho thấy không có bằng chứng về hiện tượng tự tương quan, phương sai thay đổi, sai dạng hàm hoặc phân phối phần dư không chuẩn trong mô hình. Điều này khẳng định mô hình ARDL được lựa chọn là phù hợp, ổn định và có thể sử dụng cho các phân tích tiếp theo.

Bảng 4: Kết quả ước lượng ARDL

Biến

Hệ số hồi quy

Biến ngắn hạn

Hệ số hồi quy

P-value

Dài hạn

Ngắn hạn

ECT (tốc độ điều chỉnh)

-

ECT (ecm)

-1.0347

0.0184

lnREM

0.1643

ΔlnREM

0.2434

0.0444

lnFDI

-1.1052

ΔlnFDI

0.0959

0.0405

M2

-0.0325

ΔM2

-0.0019

0.4858

HDI

-16.5805

ΔHDI

-3.2026

0.0050

OPEN

0.0269

ΔOPEN

-0.0062

0.0000

GOV

-0.0595

ΔGOV

-0.0060

0.4243

CPI

-0.0297

ΔCPI

0.0036

0.4183

Intercept

-

Intercept

0.1225

0.0000

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của nhóm tác giả

Kết quả cho thấy, REM có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Hệ số hồi quy dài hạn của biến logarit REM (lnREM) đạt giá trị dương, cho thấy khi REM tăng lên 1%, GDP bình quân đầu người tăng tương ứng khoảng 0.16% trong dài hạn. Ở chiều ngắn hạn, sự gia tăng 1% kiều hối cũng thúc đẩy GDP tăng thêm khoảng 0.24%, với mức ý nghĩa cao (p-value = 0.0444). Kết quả này cũng tương đồng với các kết quả nghiên cứu trước đối với vai trò của REM trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển. Các tác giả đều nhấn mạnh rằng, REM không chỉ hỗ trợ tiêu dùng và tiết kiệm hộ gia đình mà còn góp phần mở rộng đầu tư, sản xuất và tạo hiệu ứng lan tỏa cho nền kinh tế.

Kiểm định nhân quả Granger

Kết quả kiểm định nhân quả Granger (Bảng 5) cho thấy, tất cả các giá trị p-value > 0.05, dẫn đến việc chấp nhận giả thuyết gốc rằng không tồn tại quan hệ nhân quả Granger giữa các biến này trong ngắn hạn.

Bảng 5: Kiểm định nhân quả Granger

Giả thuyết

F-Stat

P-value

Kết luận

lnREM không gây ra lnGDP

2.188

0.1574

Chấp nhận

lnFDI không gây ra lnGDP

2.245

0.1524

Chấp nhận

lnGDP không gây ra lnREM

2.298

0.1479

Chấp nhận

lnGDP không gây ra lnFDI

0.832

0.3745

Chấp nhận

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của nhóm tác giả

Kết quả nghiên cứu cho thấy, REM có tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này nhấn mạnh vai trò của REM như một nguồn lực ngoại tệ quan trọng, hỗ trợ tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư sản xuất và ổn định vĩ mô.

Đối với FDI, kết quả cho thấy tác động dương trong ngắn hạn, phản ánh thực trạng hiện nay khi dòng vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành thâm dụng lao động, giá trị gia tăng thấp nên chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa bền vững cho nền kinh tế.

Biến OPEN có tác động trái chiều giữa 2 khung thời gian, ngắn hạn là âm, dài hạn là dương, hàm ý quá trình hội nhập quốc tế có thể tạo ra những thách thức nhất định trước khi các lợi ích dài hạn phát huy tác dụng, phù hợp với đặc thù nền kinh tế đang chuyển đổi.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, REM có tác động cùng chiều, mạnh mẽ và ổn định đối với GDP cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, trong khi các yếu tố: FDI, OPEN, HDI có sự tác động khác biệt phụ thuộc vào chất lượng điều phối chính sách, thể chế và định hướng sử dụng nguồn lực. Các yếu tố khác như: cung tiền M2, GOV và CPI không có ý nghĩa trong ngắn hạn, nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng trong ổn định môi trường vĩ mô dài hạn.

Trên cơ sở đó, để tối ưu hóa vai trò của kiều hối cũng như các dòng vốn quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế bền vững, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống chính sách thu hút và sử dụng kiều hối hiệu quả, bền vững. Cần xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch và thân thiện để khuyến khích cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài chuyển kiều hối về nước dưới nhiều hình thức đa dạng như: tiết kiệm, đầu tư sản xuất, góp vốn kinh doanh, khởi nghiệp và các dự án cộng đồng.

Tăng cường truyền thông về thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện thủ tục hành chính, nâng cao năng lực các tổ chức tài chính trung gian và ứng dụng công nghệ số trong dịch vụ chuyển tiền quốc tế để giảm chi phí, rút ngắn thời gian giao dịch. Bên cạnh đó, cần kiểm soát, định hướng kiều hối vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ và các hoạt động tạo giá trị bền vững cho xã hội, tránh tình trạng đầu cơ tài sản và biến động bất ổn trên thị trường tài chính.

Hai là, thúc đẩy phát triển tài chính và tăng khả năng hấp thụ vốn. Tiếp tục hiện đại hóa hệ thống ngân hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế tài chính, đồng thời tạo điều kiện tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như khu vực sản xuất. Bên cạnh đó, thiết kế các sản phẩm tài chính linh hoạt, các kênh huy động vốn đa dạng và chính sách ưu đãi thuế đối với dòng kiều hối chuyển thành vốn đầu tư sản xuất, đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ. Ngoài ra, tích cực duy trì chính sách tỷ giá ổn định, kiểm soát lạm phát và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô để tăng sức hút của kiều hối, giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ, thúc đẩy nguồn vốn quay vòng trong nền kinh tế.

Ba là, xây dựng cơ chế liên kết bền chặt giữa doanh nghiệp trong nước và cộng đồng kiều bào. Bên cạnh các biện pháp thu hút kiều hối dưới dạng đầu tư cá nhân, cần phát triển các chương trình kết nối hợp tác kinh doanh, chuyển giao công nghệ, đồng phát triển dự án giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp kiều bào và đối tác quốc tế. Hỗ trợ xúc tiến đầu tư - thương mại, cung cấp thông tin thị trường, tư vấn pháp lý, chính sách khuyến khích doanh nhân Việt kiều tham gia vào các lĩnh vực ưu tiên như: công nghiệp chế biến, công nghệ cao, logistics, nông nghiệp sạch... Cơ chế này không chỉ tăng hiệu quả sử dụng kiều hối, mà còn góp phần phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam.

Bốn là, định hướng lại cơ cấu chi tiêu công và nâng cao hiệu quả quản trị vĩ mô. Chính phủ cần ưu tiên phân bổ ngân sách vào các lĩnh vực nền tảng như: giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, y tế cộng đồng, hạ tầng khoa học - công nghệ và phát triển thể chế. Đồng thời, tăng cường các biện pháp kiểm soát hiệu quả đầu tư công, bảo đảm các khoản chi tiêu thực sự góp phần cải thiện năng suất và chất lượng tăng trưởng. Cùng với đó, nâng cao năng lực điều phối chính sách vĩ mô để hỗ trợ chuyển hóa nguồn lực từ kiều hối và các dòng vốn quốc tế thành động lực phát triển bền vững; từ đó, giảm thiểu rủi ro bất ổn vĩ mô và kiểm soát tốt lạm phát trong dài hạn.

(*) Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tiến hành trong khuôn khổ đề tài KT.25.13: “Chính sách thu hút lao động có kỹ năng hồi hương” do Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tài trợ.

Tài liệu tham khảo:

1. Akter, S., Hasan, S. B., Akter, R., and Jui, J. R. (2024). How Do Net Exports and Remittances Impact on Economic Growth in Bangladesh? Insight from ARDL Time Series Model, Saudi J Econ Fin, 8(8), 274-283.

2. Borensztein, E., De Gregorio, J., and Lee, J.-W. (1998). How does foreign direct investment affect economic growth?, Journal of International Economics, 45(1), 115-135.

3. Catrinescu, N., Leon-Ledesma, M., Piracha, M., and Quillin, B. (2009). Remittances, institutions, and economic growth, World Development, 37(1), 81-92.

4. De Mello Jr, L. R. (1997). Foreign direct investment in developing countries and growth: A selective survey, The journal of development studies, 34(1), 1-34.

5. Jushi, E., Hysa, E., Cela, A., Panait, M., and Voica, M. C. (2021). Financing growth through remittances and foreign direct investment: Evidences from Balkan Countries, Journal of risk and financial management, 14(3), 117.

6. Mostafa, M. G., and Wadud, M. A. (2024). Impacts of Remittance and FDI on Economic Growth in South Asian Countries: A Panel Data Analysis, International Journal of Science and Business, 40(1), 92-106.

7. Obeng-Amponsah, W., and Owusu, E. (2025). Foreign direct investment, technological transfer, employment generation and economic growth: new evidence from Ghana, International Journal of Emerging Markets, 20(5), 2088-2109.

8. Rahman, M. M., Yong, T. T., and Ullah, A. A. (2014). Migrant remittances in South Asia: an introduction, Migrant Remittances in South Asia: Social, Economic and Political Implications, 1-30.

9. To, A. H., Ha, D. T.-T., Nguyen, H. M., and Vo, D. H. (2019). The impact of foreign direct investment on environment degradation: evidence from emerging markets in Asia, International journal of environmental research and public health, 16(9), 1636.

10. Trevino, L. J., and Upadhyaya, K. P. (2003). Foreign aid, FDI and economic growth: evidence from Asian countries, Transnational Corporations, 12(2), 119-136.

11. United Nations (2024). DESA Highlights Report 2023-2024. Department of Economic and Social Affairs, https://www.un.org/sites/un2.un.org/files/desa-highlights-report-2023-2024.pdf.

12. World Bank (2024). Foreign direct investment, net inflows (BoP, current U.S. $), In World Development Indicators, https://databank.worldbank.org/source/world-development indicators/Series/BX.KLT.DINV.CD.WD

13. Zardoub, A. (2023). Exploring the links between financial flows and economic growth: A panel ARDL approach, PSU Research Review, 7(2), 90-104.

Ngày nhận bài: 26/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 25/9/2025; Ngày duyệt đăng: 6/10/2025