Tác động của chuyển đổi số tới quản lý nhà nước về đất đai vùng Đồng bằng sông Hồng(*)
TS. Nguyễn Văn Lành
Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu Nghị,
Email: dungnguyenthanhtra79@gmail.com
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích thực trạng chuyển đổi số trong quản lý nhà nước về đất đai tại vùng Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2020-2025, tập trung vào các khía cạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch và nâng cao hiệu quả quản lý. Qua thu thập số liệu và ví dụ từ các địa phương trong Vùng, nghiên cứu cho thấy chuyển đổi số đã góp phần rút ngắn quy trình xử lý hồ sơ đất đai, giảm thời gian và chi phí cho người dân; đồng thời nâng cao tính công khai, minh bạch trong quản lý đất đai, giúp hạn chế tiêu cực. Kết quả nghiên cứu khẳng định, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu để hiện đại hóa công tác quản lý đất đai, góp phần cải cách hành chính, minh bạch hóa thông tin và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.
Từ khóa: Chuyển đổi số, quản lý đất đai, Đồng bằng sông Hồng, cơ sở dữ liệu đất đai, dịch vụ công trực tuyến, minh bạch
Summary
The study analyzes the current state of digital transformation in state land management in the Red River Delta region during the 2020 –2025 period, with a focus on administrative procedure reform, enhanced transparency, and improved management efficiency. Drawing on data and case studies from various localities within the region, the research finds that digital transformation has significantly shortened land-related administrative processes, reduced time and costs for citizens, and increased transparency in land governance, thereby helping to mitigate corruption and malpractice. The findings indicate that digital transformation is an inevitable trend in the modernization of land administration, contributing to administrative reform, information transparency, and the overall effectiveness and efficiency of state land management.
Keywords: Digital transformation, land management, Red River Delta, land database, online public services, transparency
GIỚI THIỆU
Chuyển đổi số (CĐS) trong quản lý nhà nước đã và đang trở thành xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền và chất lượng dịch vụ công. Trong lĩnh vực quản lý đất đai, việc ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng chính quyền điện tử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đất đai là nguồn lực kinh tế - xã hội quan trọng, nhưng công tác quản lý đất đai truyền thống ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, như thủ tục hành chính (TTHC), hồ sơ giấy tờ phức tạp, thiếu minh bạch và dễ phát sinh tiêu cực. Do vậy, CĐS được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá, giúp hiện đại hóa hệ thống quản lý đất đai, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy CĐS trong quản lý đất đai. Nghị quyết 18-NQ/TW (2022) của Ban Chấp hành Trung ương đặt mục tiêu đến năm 2025 hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) số và hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đa mục tiêu, liên thông trên phạm vi cả nước. Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đẩy nhanh tiến độ xây dựng CSDL đất đai quốc gia, coi đây là nền tảng cho Chính phủ số và phát triển kinh tế số trong lĩnh vực đất đai. Trong giai đoạn 2020-2025, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc số hóa hồ sơ địa chính, triển khai dịch vụ công trực tuyến về đất đai và kết nối liên thông dữ liệu đất đai với các CSDL quốc gia khác (như CSDL quốc gia về Dân cư, CSDL thuế).
Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố lân cận, là vùng kinh tế động lực ở phía Bắc, đã tiên phong trong cải cách TTHC và ứng dụng công nghệ thông tin. Nhiều tỉnh trong vùng đã chủ động triển khai các dự án hiện đại hóa quản lý đất đai từ sớm, qua đó đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, mức độ CĐS chưa đồng đều giữa các địa phương và vẫn tồn tại những khó khăn thách thức trong quá trình thực hiện.
THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và hạ tầng số
Việc xây dựng CSDL đất đai được coi là nền tảng của CĐS trong quản lý đất đai. Trong giai đoạn 2020-2025, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã phối hợp với các địa phương triển khai số hóa hồ sơ địa chính, lập bản đồ địa chính và tạo lập CSDL đất đai tại các đơn vị hành chính trên cả nước. Tính đến cuối năm 2024, trên phạm vi cả nước đã có 455/705 đơn vị cấp huyện (cũ) (khoảng 64,5%) hoàn thành xây dựng CSDL địa chính, tương ứng với khoảng 46 triệu thửa đất đã được nhập vào hệ thống CSDL. Đến giữa năm 2025, con số này tăng lên 495/696 huyện (khoảng 71% do có sắp xếp đơn vị hành chính) và mới chỉ khoảng 46% (46/100 triệu) thửa đất trên toàn quốc được số hóa vào CSDL địa chính. Như vậy, dù đã đạt được tiến bộ đáng kể so với giai đoạn trước 2020, việc xây dựng CSDL đất đai vẫn chưa hoàn thành, đặc biệt là đối với dữ liệu về quy hoạch sử dụng đất và giá đất. Cụ thể, đến tháng 6/2025, mới có 325/696 huyện (47%) hoàn thành CSDL quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và 300/696 huyện (43%) có CSDL giá đất.
Bên cạnh việc tạo lập dữ liệu, các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng chú trọng phát triển hạ tầng kỹ thuật số phục vụ quản lý đất đai. Nhiều tỉnh đã đầu tư nâng cấp trung tâm tích hợp dữ liệu, trang bị máy chủ, mạng truyền số liệu chuyên dùng kết nối từ cấp tỉnh đến cấp xã. Hệ thống phần mềm quản lý đất đai thống nhất (như VBDLIS) được triển khai, cho phép cập nhật, lưu trữ thông tin địa chính tập trung và phục vụ tra cứu trực tuyến. Trong đó, Hà Nội đã thực hiện dự án Xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và CSDL quản lý đất đai trên toàn Thành phố. Đến cuối năm 2024, Hà Nội đã xây dựng được CSDL địa chính tại 350/489 xã, phường; dự kiến sau khi vận hành thử nghiệm tại các địa bàn đã hoàn thành bản đồ và CSDL, sẽ tiến tới đồng bộ hóa trên toàn Thành phố vào quý III/2025 và hoàn thiện toàn bộ vào cuối năm 2025. Những nỗ lực này nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng hệ thống thông tin đất đai quốc gia tập trung, thống nhất, đa mục tiêu vào năm 2025 như đề ra trong các nghị quyết của Đảng và quy định của Luật Đất đai sửa đổi.
Nhìn chung, các tỉnh Đồng bằng sông Hồng đã có sự chủ động tích cực trong xây dựng CSDL đất đai. Một số tỉnh đã hoàn thành sớm và đạt kết quả toàn diện. Chẳng hạn, ngay trong giai đoạn 2017-2023, Thái Bình (nay là Hưng Yên), Hà Nam và Ninh Bình (nay là Ninh Bình) đã hoàn thành 100% công tác xây dựng CSDL đất đai trên địa bàn. Tỉnh Hưng Yên từng ứng dụng tin học trong quản lý đất đai từ cách đây 15-16 năm, song hệ thống cũ chỉ phục vụ nội bộ, chưa tích hợp với CSDL quốc gia. Đến giữa năm 2025, khi sắp xếp với Thái Bình, Hưng Yên đã lựa chọn chuyển sang sử dụng phần mềm quản lý đất đai mà Thái Bình đã triển khai, đồng thời tập trung cập nhật lại dữ liệu bản đồ để kịp kết nối vào Trung tâm dữ liệu quốc gia. Điều này cho thấy sự cần thiết của một nền tảng công nghệ thống nhất và cập nhật dữ liệu đầy đủ, đồng bộ giữa các địa phương.
Những kết quả trên cho thấy CĐS trong lĩnh vực đất đai đã đạt được bước tiến lớn nhưng vẫn còn dư địa để hoàn thiện. Tại Đồng bằng sông Hồng, nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao, nhiều tỉnh đã về đích sớm trong xây dựng CSDL đất đai (được hỗ trợ một phần qua dự án VLAP/VILG do Ngân hàng Thế giới tài trợ). Tuy nhiên, cũng có những địa phương chậm tiến độ do chưa chủ động, chưa bố trí nguồn lực tương xứng và chưa ý thức đầy đủ vai trò quan trọng của hệ thống thông tin, CSDL đất đai trong quản lý và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Do đó, việc đẩy nhanh xây dựng CSDL đất đai đồng bộ trên toàn Vùng vẫn là nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm 2025, nhằm bảo đảm mọi địa phương đều sẵn sàng kết nối, tích hợp với CSDL quốc gia về đất đai và khai thác hiệu quả hệ thống này.
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai
CĐS đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy cải cách TTHC trong quản lý đất đai, hướng tới mục tiêu giảm phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Trước đây, các thủ tục về đất đai thường yêu cầu người dân trực tiếp đến cơ quan Nhà nước nộp hồ sơ giấy, qua nhiều khâu trung gian và mất nhiều thời gian chờ đợi. Từ năm 2020 trở lại đây, cùng với quá trình số hóa, các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng đã triển khai mạnh mẽ dịch vụ công trực tuyến và giải quyết TTHC theo mô hình “một cửa điện tử” trong lĩnh vực đất đai.
Tại Hà Nội, 100% TTHC về đất đai hiện đã được cung cấp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến toàn trình (mức độ 4), tích hợp định danh, xác thực điện tử và chia sẻ dữ liệu dân cư. Tất cả các quy trình giải quyết TTHC đều được xây dựng dưới dạng quy trình điện tử và công khai trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của Thành phố, cho phép người dân, doanh nghiệp giám sát, đánh giá quá trình thực hiện. Cùng với đó, Hà Nội đã chuẩn hóa và điện tử hóa quy trình nghiệp vụ xử lý hồ sơ; số hóa hồ sơ và lưu trữ hồ sơ công việc trên môi trường mạng. Điều này giúp loại bỏ dần việc xử lý hồ sơ giấy thủ công, thay thế bằng quy trình liên thông trên hệ thống số, qua đó cắt giảm các khâu trung gian và rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục.
Nhiều tỉnh khác trong vùng cũng đã thiết lập Cổng dịch vụ công trực tuyến tích hợp với CSDL đất đai. Tỉnh Nam Định (nay là Ninh Bình) cung cấp tới 1.761 dịch vụ công trực tuyến ở mức độ toàn trình hoặc một phần; toàn bộ quy trình giải quyết TTHC các cấp được điện tử hóa và công khai, góp phần xây dựng chính quyền số minh bạch, hiệu quả. Tỉnh Bắc Ninh (nay là Bắc Giang) phát triển một loạt ứng dụng nội bộ phục vụ giải quyết thủ tục như: hệ thống quản lý dữ liệu đất đai (LMS), hệ thống đăng ký và lấy số thửa, số hồ sơ trực tuyến, hệ thống quản lý quy trình cấp giấy chứng nhận, hệ thống quản lý phôi sổ đỏ... Đặc biệt, nhiều địa phương đã thực hiện liên thông thủ tục: thông tin hồ sơ đất đai sau khi tiếp nhận được chuyển điện tử trực tiếp sang cơ quan Thuế để tính nghĩa vụ tài chính, thay vì yêu cầu người dân phải tự chuyển phiếu thông tin như trước đây.
Song song với việc cung cấp dịch vụ trực tuyến, các địa phương cải tiến mô hình một cửa truyền thống theo hướng hiện đại. Nhiều nơi thành lập bộ phận một cửa kiểu mới, ứng dụng công nghệ thông tin để tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ nhanh chóng. Đơn cử, Hà Nội triển khai mô hình một cửa hiện đại theo đề án riêng, tích hợp với hệ thống đánh giá sự hài lòng của người dân. Nhờ áp dụng các giải pháp này, người dân có thể nộp hồ sơ đất đai trực tuyến 24/7 hoặc tại một cửa điện tử tại xã/phường, nhận kết quả qua mạng hoặc dịch vụ bưu chính, thay vì phải đi lại nhiều lần. Thực tế tại những địa phương đã hoàn thiện CSDL đất đai cho thấy họ có thể đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công mức 3, mức 4 và tiếp nhận, trả hồ sơ qua môi trường điện tử (email, bưu điện) một cách thuận lợi. Đây chính là những cải cách giúp đơn giản hóa thủ tục và giảm đáng kể thời gian thực hiện TTHC về đất đai cho người dân, doanh nghiệp.
Tăng cường tính minh bạch và tiếp cận thông tin
Một lợi ích cốt lõi khác mà CĐS mang lại là nâng cao tính minh bạch trong quản lý đất đai và tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cho người dân, doanh nghiệp. Trước đây, thông tin đất đai (như quy hoạch sử dụng đất, tình trạng pháp lý thửa đất, giá đất) thường khó tiếp cận, người dân phải trực tiếp đến cơ quan địa chính tra cứu hoặc phụ thuộc vào cán bộ cung cấp. Sự thiếu công khai, minh bạch này là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tiêu cực, nhũng nhiễu. Do vậy, việc xây dựng các CSDL và cổng thông tin đất đai điện tử đã mở ra kênh minh bạch hóa dữ liệu đất đai chưa từng có.
Minh bạch thông tin còn thể hiện ở việc liên thông CSDL giữa các ngành, giảm yêu cầu người dân cung cấp lại thông tin đã có sẵn. Chẳng hạn, khi CSDL đất đai kết nối với CSDL quốc gia về Dân cư, nhiều thủ tục như đăng ký biến động do thay đổi CMND/CCCD, xác nhận tình trạng nhân thân được thực hiện tự động kiểm tra trên hệ thống, không cần người dân nộp giấy tờ chứng minh như trước. Đây là chủ trương “cắt giảm việc người dân phải kê khai lại thông tin cá nhân” được Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quán triệt khi xây dựng hệ thống số. Kết quả là vừa giảm phiền hà, vừa tăng tính chính xác, công khai của dữ liệu - thông tin công dân được lấy từ nguồn CSDL quốc gia về dân cư, đảm bảo độ tin cậy cao.
Nhờ CĐS, nhiều khe hở cho tham nhũng vặt trong quản lý đất đai đã được thu hẹp. Khi quy trình xử lý hồ sơ được điện tử hóa và giám sát trên hệ thống, cán bộ không thể tùy tiện kéo dài thời gian hoặc yêu cầu bổ sung giấy tờ vô lý mà không bị phát hiện. Các bước tiếp nhận, luân chuyển và trả kết quả đều để lại dấu vết trên hệ thống, giảm tiếp xúc trực tiếp và do đó giảm nguy cơ phát sinh chi phí không chính thức. Báo cáo sơ kết thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW (2022) cho thấy, nhờ luật pháp và công nghệ mới, trách nhiệm, công khai minh bạch trong tiếp cận đất đai được tăng cường, qua đó giảm thiểu tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này. Người dân và nhà đầu tư dần lấy lại niềm tin vào hệ thống quản lý đất đai của Nhà nước khi quyền tiếp cận thông tin được đảm bảo bình đẳng, công bằng.
Tóm lại, CĐS đã và đang giúp minh bạch hóa công tác quản lý đất đai ở Đồng bằng sông Hồng trên cả 2 phương diện: (1) Minh bạch quy trình thủ tục mọi tiêu chí, kết quả giải quyết đều công khai trực tuyến; và (2) Minh bạch dữ liệu đất đai người dân được quyền tiếp cận thông tin về đất đai một cách thuận tiện. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý cũng như phòng chống tiêu cực trong lĩnh vực đất đai vốn nhạy cảm.
Hiệu quả quản lý: So sánh trước và sau chuyển đổi số
Việc ứng dụng công nghệ số mang lại những cải thiện rõ rệt về hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. So sánh giai đoạn trước khi CĐS (trước 2020) và sau khi triển khai CĐS (2023-2025) cho thấy nhiều chỉ số hiệu quả đã được nâng cao.
Một là, thời gian giải quyết thủ tục đất đai đã rút ngắn đáng kể. Trước đây, theo quy định, thời gian cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thường từ 30 đến 55 ngày tùy trường hợp, nhưng trên thực tế có nơi người dân phải chờ đợi hàng tháng, thậm chí hàng năm do hồ sơ bị tồn đọng. Sau khi áp dụng hệ thống một cửa điện tử và dịch vụ trực tuyến, nhiều địa phương cam kết trả kết quả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong vòng 1-2 tuần nếu hồ sơ đầy đủ.. Còn tại những địa bàn đã hoàn thiện CSDL đất đai, việc giải quyết hồ sơ qua dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 và trả kết quả qua bưu điện diễn ra nhanh chóng, thời gian giảm trung bình 20-30% so với trước kia.
Hai là, chất lượng phục vụ và sự hài lòng của người dân được nâng cao. Chỉ số SIPAS (mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ hành chính) và chỉ số Par Index (cải cách hành chính) của các tỉnh trong vùng đều cải thiện sau khi đẩy mạnh số hóa. Tại Hà Nội, việc ứng dụng công nghệ thông tin và CĐS trong lĩnh vực đất đai đã góp phần nâng cao các tiêu chí thành phần của chỉ số Par Index, đưa điểm số của Thành phố tăng lên rõ rệt.
Ba là, hiệu suất và năng suất làm việc của cơ quan quản lý đất đai tăng lên. Đơn cử như tại Hà Nội, trước đây, mỗi khi có yêu cầu báo cáo, thống kê, cán bộ địa chính tốn rất nhiều thời gian tổng hợp số liệu từ hồ sơ giấy ở nhiều nơi. Nay, qua hệ thống Thông tin báo cáo điện tử, 100% báo cáo định kỳ của Ngành đã thực hiện trên Hệ thống thông tin báo cáo của Thành phố và kết nối với Hệ thống báo cáo quốc gia, giúp lãnh đạo nắm bắt kịp thời thông tin để chỉ đạo.
Bốn là, hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai được củng cố. Nhờ công nghệ giám sát, các trường hợp vi phạm về đất đai (lấn chiếm, sử dụng sai mục đích) có thể được phát hiện kịp thời hơn qua dữ liệu số và ảnh vệ tinh. Chính quyền các tỉnh trong vùng đã tăng cường thanh tra, kiểm tra dựa trên dữ liệu số để chấn chỉnh vi phạm, xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm, qua đó nâng cao tính răn đe và hiệu lực thực thi pháp luật đất đai.
Tóm lại, so sánh trước và sau CĐS cho thấy hiệu quả quản lý đất đai đã được nâng cao toàn diện: quy trình đơn giản hơn, thời gian ngắn hơn, chất lượng phục vụ tốt hơn và quản lý nhà nước chặt chẽ hơn. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định (ví dụ: chưa số hóa đầy đủ 100% dữ liệu, một bộ phận người dân chưa quen dùng dịch vụ trực tuyến), xu hướng chung là tích cực và không thể đảo ngược. CĐS đang biến đổi cách thức quản lý đất đai theo hướng tiện lợi, minh bạch và hiệu quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội so với phương thức quản lý truyền thống.
KẾT LUẬN
CĐS đã và đang tạo ra những tác động sâu rộng, tích cực đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai tại vùng Đồng bằng sông Hồng. Nghiên cứu cho thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng CSDL đất đai tập trung đã góp phần hiện đại hóa hệ thống quản lý, khắc phục nhiều hạn chế tồn tại lâu nay. TTHC trong lĩnh vực đất đai được cải cách mạnh mẽ, minh chứng qua việc rút gọn quy trình, giảm thời gian xử lý hồ sơ và tăng mức độ hài lòng của người dân. Tính minh bạch trong quản lý đất đai được tăng cường rõ rệt khi dữ liệu được công khai và người dân dễ dàng tiếp cận thông tin hơn bao giờ hết. Đồng thời, hiệu quả và hiệu lực quản lý được nâng cao, giúp các địa phương trong Vùng cải thiện các chỉ số về quản trị, cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo Nghị quyết 203/2025/QH15.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (2022). Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022). Kết quả triển khai CSDL đất đai quốc gia. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023). CĐS trong quản lý đất đai: Cơ hội và thách thức. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Chính phủ (2023). Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 17/3/2023 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
5. Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội (2023). Báo cáo kết quả CĐS trong quản lý đất đai tại Hà Nội.
6. Trương, H. P. (2021). CĐS trong quản lý đất đai tại Việt Nam. Tạp chí Quản lý Nhà nước, 33(2), 45-59.
| Ngày nhận bài: 8/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 11/8/2025; Ngày duyệt đăng: 12/8/2025 |

Bình luận