Sở hữu nhà nước, tư nhân hóa và hiệu quả doanh nghiệp: Nghiên cứu điển hình của các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam
Vũ Đình Nghĩa
Vụ Tài chính- Kế toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Email: nghiavd6789@gmail.com
Tóm tắt
Nghiên cứu xem xét mối tương quan giữa sở hữu nhà nước, tư nhân hóa và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của 10.911 doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất trong giai đoạn 2011-2018. Kết quả nghiên cứu đưa ra kết luận rằng, doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả hơn các doanh nghiệp ngoài nhà nước về lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE); tư nhân hóa cải thiện cả hiệu quả tài chính và hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, nghiên cứu đưa ra các hàm ý chính sách để cải thiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và quá trình tư nhân hóa, như: Chính phủ nên xây dựng một kế hoạch chi tiết về tư nhân hóa, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, cắt giảm chi phí lao động và tăng năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp nhà nước.
Từ khóa: Doanh nghiệp nhà nước, sở hữu nhà nước, tư nhân hóa, hiệu quả phi kỹ thuật
Summary
The study examines the relationship between state ownership, privatization, and performance of state-owned enterprises (SOEs) using panel data of 10,911 Vietnamese manufacturing enterprises during the period 2011-2018. The study results conclude that SOEs are less efficient than non-state enterprises in terms of Return on Equity (ROE) and privatization improves both financial and technical efficiency of SOEs. Accordingly, the study provides policy implications to improve the efficiency of SOEs and the privatization process, such as: The government should develop a detailed plan for privatization, create a favorable business environment for enterprises, cut labor costs and increase the export capacity of SOEs.
Keywords: State-owned enterprises, state ownership, privatization, non-technical efficiency
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2022 (Tổng cục Thống kê, nay là Cục Thống kê, 2022) cho thấy, các chỉ tiêu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đạt được trong năm 2020 cụ thể như sau: Tổng doanh thu thuần chỉ đạt 3,4 triệu tỷ đồng, giảm so với năm 2019 và chiếm 12,6% tổng doanh thu thuần của tất cả các loại hình doanh nghiệp, kém xa của các doanh nghiệp ngoài nhà nước (15,7 triệu tỷ đồng, chiếm 57,6%) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 8,2 triệu tỷ đồng, chiếm 29,8%; Chỉ số nợ trên vốn chủ sở hữu cao nhất là 3,5 lần, cao hơn nhiều so với chỉ số của khu vực ngoài nhà nước là 1,9 lần và khu vực FDI là 1,5 lần; Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) lần lượt là 1,9% và 8,5%, cao hơn ROA, ROE của các doanh nghiệp ngoài nhà nước (1,1% và 3,2%), nhưng lại thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI (5,2% và 12,8%). Những số liệu trên đã phác họa bức tranh nợ khá đáng kể của DNNN, tạo gánh nặng cho chi tiêu ngân sách nhà nước.
Những hạn chế này cho thấy hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với tiềm lực. Đặc biệt, quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam còn rất chậm và chưa đạt được mục tiêu đề ra của Chính phủ; hiệu quả hoạt động còn thiếu tương xứng với nguồn lực đầu tư, do đó hạn chế khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cơ chế quản trị DNNN chậm cải cách, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tính công khai, minh bạch còn hạn chế… Việc đánh giá tổng thể mối tương quan giữa sở hữu nhà nước, tư nhân hóa và hiệu quả doanh nghiệp vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Mục tiêu của nghiên cứu này kỳ vọng có thể đánh giá kỹ lưỡng tầm quan trọng của sở hữu nhà nước và tư nhân hóa đối với hiệu quả DNNN tại Việt Nam, làm căn cứ để khuyến nghị một số giải pháp, chính sách phù hợp cho quá trình tư nhân hóa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở dữ liệu thu thập từ Khảo sát doanh nghiệp Việt Nam hàng năm của Tổng cục Thống kê, nghiên cứu chọn lọc dữ liệu từ 10.911 doanh nghiệp bao gồm DNNN, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI giai đoạn 2011-2018. Đối tượng của nghiên cứu tập trung vào các doanh nghiệp sản xuất, thay vì các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính và các lĩnh vực khác. Hiệu quả đầu ra của doanh nghiệp được đo lường bằng các chỉ tiêu ROA, ROE và Hiệu quả phi kỹ thuật (TiE).
Để kiểm định 2 giả thuyết: (i) DNNN hoạt động kém hiệu quả hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và (ii) Tư nhân hóa giúp cải thiện hiệu quả kỹ thuật của DNNN, nghiên cứu thực hiện theo các bước sau:
Bước 1, sử dụng ROA và ROE để tính toán hiệu quả tài chính và lựa chọn phương pháp phân tích biến ngẫu nhiên (SFA) của Battese và Coelli (1995) để đo lường yếu tố phi hiệu quả của doanh nghiệp.
Bước 2, áp dụng phương pháp so sánh điểm xu hướng (PSM) của Rosenbaum và Rubin (1983) để so sánh và đánh giá sự khác biệt về hiệu quả hoạt động (TiE, ROA, ROE) giữa nhóm DNNN với doanh nghiệp ngoài nhà nước, giữa nhóm DNNN với DNNN đã tư nhân hóa. Phương pháp SFA tính tới cả ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào khác như lao động, năng lượng … thay vì chỉ tính đến yếu tố vốn như ROA và ROE. Kỹ thuật PSM sử dụng một mô hình probit để lựa chọn những quan sát có các đặc điểm tương đồng, sau đó so sánh sự khác biệt của các đối tượng khi áp dụng chính sách.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thống kê hiệu quả hoạt động
Bảng 1, dữ liệu các doanh nghiệp chế biến và sản xuất giai đoạn 2011-2018 cho thấy trung bình các chỉ số TiE, ROA và ROE của các DNNN lần lượt là 2,34%, 5,36% và 13,45%. Trong khi, doanh nghiệp ngoài nhà nước là 2,32%, 3,51% và 8,45%. Có thể thấy rằng thoạt nhìn về hiệu số tài chính, các DNNN có giá trị trung bình ROA và ROE thậm chí còn cao hơn các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Bảng 1: Thống kê về TiE, ROA và ROEtrong các DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước
|
Biến |
DNNN |
Doanh nghiệp ngoài nhà nước |
||||
|
Số quan sát |
Trung bình |
Độ lệch chuẩn |
Số quan sát |
Trung bình |
Độ lệch chuẩn |
|
|
TiE |
1.917 |
2,337 |
0,125 |
50,880 |
2,322 |
0,128 |
|
ROA |
1.917 |
5,364 |
8,219 |
50,880 |
3,512 |
9,223 |
|
ROE |
1.917 |
13,452 |
23,686 |
50,880 |
8,451 |
28,567 |
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
So sánh giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước
Hiệu ứng biên trung bình của DNNN của mô hình probit trong phương pháp PSM (Bảng 2). Tỷ lệ doanh nghiệp là DNNN có tương quan thuận chiều với việc sử dụng tài sản cố định, chi phí doanh nghiệp và tuổi doanh nghiệp. Ngược lại, các yếu tố hiệu quả lao động, doanh nghiệp nhỏ và vừa và chỉ số giá tiêu dùng (PCI) có tác động ngược chiều với xác suất doanh nghiệp là DNNN.
Bảng 2: Hiệu ứng biên trung bình về sở hữu nhà nước
|
Biến |
Hiệu ứng biên trung bình |
Độ lệch chuẩn |
|
Tài sản cố định |
0,132*** |
0,0408 |
|
Chi phí lao động |
0,334*** |
0,0495 |
|
Hiệu quả lao động |
-0,198*** |
0,0441 |
|
Tuổi DN |
0,247*** |
0,0722 |
|
Doanh nghiệp xuất khẩu |
-0,111 |
0,0807 |
|
Doanh nghiệp nhỏ và vừa |
-0,749*** |
0,137 |
|
PCI |
-0,0994*** |
0,0107 |
|
Constant |
-8,021*** |
0,747 |
|
Observations |
51.676 |
51.676 |
|
Number of id |
10.911 |
10.911 |
Ghi chú: *** p < 0,01, ** p < 0,05, * p < 0,1
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Kết quả PSM (Bảng 3), DNNN có ROA thấp hơn 0,808% so với doanh nghiệp ngoài nhà nước có cùng đặc điểm ở mức tin cậy 99%. Ngoài ra, DNNN có ROE thấp hơn và TiE cao hơn so với doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tuy nhiên, hệ số tác động của ROE và TiE không có ý nghĩa thống kê, do đó kết quả của mô hình không thể đưa ra kết luận so sánh về ROE và TiE.
Bảng 3: Sự khác biệt giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước
|
Biến |
TiE |
ROA |
ROE |
|
DNNN và DN ngoài Nhà nước |
0,00342 |
-0,808*** |
-0,744 |
|
(0,00361) |
(0,300) |
(0,757) |
|
|
Số quan sát |
51.676 |
40.217 |
40.505 |
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
So sánh giữa DNNN chưa tư nhân hóa và DNNN đã tư nhân hóa
Bảng 4 thể hiện các hiệu ứng biên trung bình trong mô hình probit về tư nhân hóa. Trong mô hình này, privat là biến phụ thuộc với các biến giải thích như trong mô hình probit về tư nhân hóa DNNN. Ngoại trừ chi phí lao động và doanh nghiệp xuất khẩu, tất cả các yếu tố khác đều có tác động tích cực đáng kể ở mức ý nghĩa 1% đến tỷ lệ tư nhân hóa của một doanh nghiệp. Kết quả cho thấy rằng nếu một DNNN có quy mô vừa và nhỏ, năng suất lao động cao hơn, tuổi đời cao hơn và môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, thì tỷ lệ DNNN được tư nhân hóa sẽ cao hơn.
Bảng 4: Hiệu ứng biên trung bình về tư nhân hóa
|
Biến |
Hiệu ứng biên trung bình |
Độ lệch chuẩn |
|
Tài sản cố định |
0,358** |
0,181 |
|
Chi phí lao động |
-0,276 |
0,192 |
|
Hiệu quả lao động |
1,208*** |
0,241 |
|
Tuổi Doanh nghiệp |
8,951*** |
0,592 |
|
Doanh nghiệp xuất khẩu |
-0,365 |
0,222 |
|
Doanh nghiệp nhỏ và vừa |
0,955* |
0,500 |
|
PCI |
0,187*** |
0,0320 |
|
Tham số |
-56,68*** |
4,096 |
|
Số quan sát |
2.146 |
2.146 |
|
Số doanh nghiệp |
379 |
379 |
Notes: *** p < 0,01, ** p < 0,05, * p < 0,1
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Kết quả ước lượng PSM, sau khi cổ phần hóa (Bảng 5), các DNNN đã cổ phần hóa có ROA và ROE cao hơn đáng kể so với các DNNN chưa cổ phần hóa, lần lượt là 1,5% và 4,3%, cả hai đều có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 99%. Ngoài ra, cổ phần hóa cũng cải thiện TiE của doanh nghiệp. Ở mức tin cậy 95%, các DNNN đã cổ phần hóa có mức độ kém hiệu quả thấp hơn 0,022 điểm phần trăm so với các DNNN chưa cổ phần hóa.
Bảng 5: Sự khác biệt giữa đã tư nhân hóa và daonh nghiệp chưa tư nhân hóa
|
Biến |
TiE |
ROA |
ROE |
|
DN đã tư nhân hóa và DN chưa tư nhân hóa |
-0,0218** (0,00863) |
1,507** (0,650) |
4,310*** (1,635) |
|
Observations |
2.146 |
1.889 |
1.903 |
Ghi chú: *** p < 0,01, ** p < 0,05, * p < 0,1
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Kết quả của các mô hình probit cho thấy DNNN chưa tư nhân hóa thường có quy mô lớn, chi phí lao động, tuổi đời cao và môi trường kinh doanh thuận lợi, nhưng năng suất lao động thấp. Từ đó rút ra nhận định rằng Nhà nước không nên nắm giữ quá nhiều cổ phần và giải pháp đặt ra là cần sớm thoái vốn, giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại DNNN. Tuy nhiên, tiến trình thoái vốn đang chậm lại, do vậy nghiên cứu đề xuất các giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng chính sách cổ phần hóa hợp lý, từ việc đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNN so với các doanh nghiệp tư nhân cùng ngành. Đây là yếu tố then chốt để quyết định duy trì tỷ lệ nắm giữ cổ phần chi phối tại doanh nghiệp đó hay không. Đồng thời, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch và lộ trình cụ thể cho việc cổ phần hóa DNNN để tạo định hướng cho các doanh nghiệp này.
Thứ hai, Chính phủ cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho DNNN trong quá trình cổ phần hóa, bao gồm hành lang pháp lý cho quá trình bán vốn và định giá doanh nghiệp. Theo đó, Chính phủ cần chủ động tháo gỡ những vướng mắc để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, tư nhân hóa DNNN, tối ưu hóa nguồn lực kinh tế, từ đó tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, xây dựng cơ chế khen thưởng, xử phạt phù hợp đối với các doanh nghiệp trong các đề án cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của cổ phần hóa, góp phần nâng cao nhận thức của người đứng đầu DNNN, nhất là ở các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, nơi mà quá trình cổ phần hóa diễn ra phức tạp hơn.
Thứ tư, hiệu quả hoạt động của DNNN thấp hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có thể do năng lực quản lý yếu kém. Điều này đã được đề cập trong các nghị quyết của Đảng đã ban hành. Tuy nhiên, cần cụ thể hóa giải pháp khắc phục tình trạng quản lý yếu kém bằng cơ chế xử phạt hợp lý đối với người đứng đầu DNNN khi hoạt động yếu kém.
Thứ tư, nâng cao năng lực quản lý thông qua việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN, đảm bảo không để xảy ra tình trạng gian lận, thất thoát vốn Nhà nước. Bên cạnh đó, tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động trong các DNNN. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách tăng năng lực xuất khẩu và giá trị xuất khẩu hàng hóa, đồng thời giảm hoặc thay thế lao động dôi dư của DNNN.
Tài liệu tham khảo:
1. Battese, G. E. và T. J. Coelli. (1995). Một mô hình về hiệu ứng kém hiệu quả kỹ thuật trong hàm sản xuất biên giới ngẫu nhiên cho dữ liệu bảng, Kinh tế học thực nghiệm, 20 (2): 325-32
2. Rosenbaum, Paul R., và Donald B. Rubin. (1983). Vai trò trung tâm của Điểm khuynh hướng trong các nghiên cứu quan sát về các tác động nhân quả, Biometrika, 70 (1): 41-55.
3. Tổng cục Thống kê (GSO, 2022). Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2022.
|
Ngày nhận bài: 6/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 26/8/2025; Ngày duyệt đăng: 28/8/2025 |

Bình luận