Nguyễn Đức Lượng

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Tóm tắt

Kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Đối với thành phố Hải Phòng, trung tâm công nghiệp và logistics lớn của khu vực phía Bắc, việc phát triển kinh tế tư nhân trở thành yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng, kết quả đạt được và những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phòng; đồng thời làm rõ các cơ hội, thách thức đặt ra, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Từ khóa: Kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế, doanh nghiệp, Hải Phòng

Summary

The private sector increasingly plays a vital role in promoting economic growth and driving economic restructuring in Vietnam. For Hai Phong, a major industrial and logistics hub in northern Vietnam, the development of the private economy has become an urgent priority amid deepening international economic integration. This article analyzes the current situation, achievements, and limitations in the development of the private sector in Hai Phong, clarifies the emerging opportunities and challenges, and proposes several solutions to foster fast, efficient, and sustainable private sector growth.

Keywords: Private economy, economic development, enterprise, Hai Phong

ĐẶT VẤN ĐỀ

Kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc phát triển KTTN trở thành yêu cầu tất yếu, đặc biệt đối với các trung tâm kinh tế, động lực, như thành phố Hải Phòng. Với vị trí địa lý chiến lược, hệ thống cảng biển và logistics phát triển, cùng môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, Hải Phòng có nhiều điều kiện thuận lợi để KTTN bứt phá. Tuy nhiên, KTTN tại Hải Phòng hiện vẫn đối mặt với không ít rào cản, như: quy mô doanh nghiệp còn nhỏ, năng lực đổi mới hạn chế, khả năng liên kết chuỗi giá trị và tiếp cận nguồn lực chưa cao. Trước thực tiễn đó, việc nghiên cứu, đánh giá cơ hội và thách thức đối với phát triển KTTN ở Hải Phòng có ý nghĩa thiết thực.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Ưu điểm

Trong những năm gần đây, KTTN ở Hải Phòng đã có những bước phát triển tích cực, góp phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, bền vững.

KTTN tại Hải Phòng không ngừng phát triển, gia tăng cả về số lượng doanh nghiệp, quy mô vốn và hiệu quả hoạt động. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp KTTN trên địa bàn thành phố đã tăng từ 15.011 vào năm 2018 lên 16.758 vào năm 2022. Bình quân giai đoạn 2018-2022, toàn thành phố có khoảng 15.816,6 doanh nghiệp KTTN đang hoạt động, chiếm tới 96,13% tổng số doanh nghiệp [1]. Quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp cũng có sự cải thiện đáng kể, tăng từ 29,4 tỷ đồng/doanh nghiệp năm 2018 lên 33,3 tỷ đồng năm 2022, tăng 13,3% so với năm 2018 [1].

KTTN còn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Giai đoạn 2019–2023, KTTN đóng góp bình quân 70.318,37 tỷ đồng mỗi năm vào tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn, chiếm 43,24% tổng vốn đầu tư toàn thành phố [1]. KTTN giải quyết việc làm cho khoảng 761.893,2 lao động/năm, chiếm 73,21% tổng số lao động có việc làm trên toàn thành phố [1]. Đặc biệt, đóng góp vào GRDP đạt bình quân 136.225,8 tỷ đồng/năm, tương đương 43,37% GRDP toàn thành phố [1]. Kết quả này cho thấy, KTTN thực sự là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững của Hải Phòng.

Hạn chế, tồn tại

Thứ nhất, phần lớn doanh nghiệp KTTN trên địa bàn thành phố hiện nay vẫn có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, khả năng tích lũy vốn và mở rộng đầu tư còn hạn chế. Theo số liệu thống kê, bình quân tổng nguồn vốn hằng năm của một doanh nghiệp KTTN chỉ đạt khoảng 34,1 tỷ đồng/doanh nghiệp, trong khi con số này ở doanh nghiệp nhà nước là 725,1 tỷ đồng và ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 729,4 tỷ đồng [1]. Về quy mô lao động, bình quân giai đoạn 2018-2022, mỗi doanh nghiệp KTTN sử dụng khoảng 16 lao động, thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân 293,6 lao động/doanh nghiệp trong thành phần kinh tế nhà nước và 400 lao động/doanh nghiệp trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài [1].

Thứ hai, năng lực quản trị doanh nghiệp chưa cao, còn mang tính kinh nghiệm, thiếu chuyên nghiệp và chưa có chiến lược phát triển dài hạn. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo còn thấp; hoạt động nghiên cứu - phát triển (R&D) và đầu tư vào nâng cao chất lượng sản phẩm còn ít được quan tâm.

Thứ ba, doanh nghiệp KTTN gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn tín dụng, đất đai và lao động chất lượng cao. Cơ chế hỗ trợ tài chính hiện nay chưa đủ mạnh; Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động còn hạn chế. Trong khi đó, thủ tục hành chính liên quan đến đất đai, cấp phép xây dựng, môi trường vẫn còn rườm rà, gây khó khăn cho doanh nghiệp muốn mở rộng đầu tư.

Thứ tư, khả năng liên kết và tham gia vào chuỗi giá trị còn yếu. Các doanh nghiệp KTTN hoạt động còn đơn lẻ, thiếu hợp tác với nhau cũng như với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức hỗ trợ khác. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu cũng chưa chặt chẽ, khiến cho năng lực đổi mới và phát triển sản phẩm mới còn hạn chế.

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Cơ hội

Một là, cơ chế, chính sách phát triển KTTN ngày càng hoàn thiện và thống nhất trong toàn bộ không gian hành chính mở rộng của thành phố Hải Phòng sau khi sáp nhập với tỉnh Hải Dương. Cùng với đó, hệ thống pháp luật tiếp tục được đồng bộ hóa, minh bạch và phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế, góp phần tạo lập môi trường đầu tư – kinh doanh thuận lợi, ổn định cho các doanh nghiệp KTTN trên toàn địa bàn Thành phố.

Hai là, lợi thế về hạ tầng kỹ thuật và vị trí địa lý của Hải Phòng – Hải Dương sau hợp nhất tạo nên động lực cạnh tranh mới cho doanh nghiệp KTTN. Hải Phòng là trung tâm công nghiệp, logistics và cửa ngõ quốc tế phía Bắc, trong khi Hải Dương có thế mạnh về công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao và mạng lưới doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển ổn định. Việc tích hợp các khu công nghiệp, khu kinh tế như VSIP Hải Phòng, Deep C, Nam Đình Vũ, cùng với các cụm công nghiệp lớn tại Cẩm Giàng, Nam Sách, Kinh Môn (Hải Dương) sẽ tạo ra chuỗi liên kết vùng hiệu quả, nâng cao năng lực cung ứng của doanh nghiệp KTTN.

Ba là, xu thế chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu kết hợp với đô thị hóa và chuyển đổi số tạo ra dư địa tăng trưởng mới cho KTTN trong không gian thành phố mở rộng. Việc nhiều tập đoàn quốc tế lựa chọn Việt Nam - trong đó có Hải Phòng và Hải Dương - là điểm đến dịch chuyển chuỗi sản xuất đã mở ra cơ hội để doanh nghiệp KTTN địa phương hợp tác chuyển giao công nghệ, tham gia vào sản xuất phụ trợ, dịch vụ logistics và thương mại điện tử. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa nhanh ở các vùng vệ tinh, đặc biệt là khu vực giữa Hải Phòng và Hải Dương đang hình thành các cực tăng trưởng mới, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, dịch vụ chất lượng cao.

Thách thức

Thứ nhất, quy mô nhỏ, năng lực tài chính hạn chế vẫn là điểm yếu phổ biến của phần lớn doanh nghiệp KTTN trên địa bàn Hải Phòng – Hải Dương. Mặc dù số lượng doanh nghiệp không ngừng tăng, nhưng phần lớn vẫn thuộc nhóm nhỏ và siêu nhỏ, khả năng tích lũy vốn thấp, ít có khả năng mở rộng đầu tư hoặc đổi mới công nghệ.

Thứ hai, mức độ liên kết giữa doanh nghiệp KTTN trong vùng mở rộng còn lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp chiến lược giữa các trung tâm sản xuất - tiêu thụ. Việc Hải Phòng và Hải Dương sáp nhập đặt ra yêu cầu mới về tích hợp hệ thống logistics, thương mại và chuỗi giá trị giữa hai địa phương. Tuy nhiên, hiện nay các cụm doanh nghiệp vẫn phát triển theo hướng phân tán, tự phát, thiếu sự điều phối hiệu quả giữa doanh nghiệp KTTN với các đơn vị nghiên cứu, trung tâm xúc tiến thương mại và chính quyền địa phương.

Thứ ba, áp lực chuyển đổi số, xanh hóa sản xuất và tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, lao động quốc tế đang ngày càng lớn đối với KTTN. Trong bối cảnh các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA…) đã có hiệu lực, yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, giảm phát thải, bảo vệ quyền lợi người lao động là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu.

Thứ tư, sự chồng chéo trong cơ chế chính sách giữa Hải Phòng và Hải Dương sau khi sáp nhập có thể tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành và hỗ trợ doanh nghiệp KTTN. Sự khác biệt về quy hoạch, chính sách thu hút đầu tư, thủ tục hành chính và phân bổ nguồn lực cần được rà soát, điều chỉnh phù hợp để bảo đảm tính nhất quán, liên thông và minh bạch trong môi trường kinh doanh chung.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Phát triển KTTN là yêu cầu tất yếu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Trong bối cảnh phát triển trong thời gian tới, thành phố cần triển khai đồng bộ các giải pháp để KTTN thực sự trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế của Hải Phòng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách hỗ trợ phát triển KTTN trong toàn bộ không gian thành phố mở rộng. Trên cơ sở rà soát, thống nhất quy định giữa Hải Phòng và Hải Dương, thành phố cần ban hành cơ chế thống nhất về thu hút đầu tư, ưu đãi thuế, hỗ trợ đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt chú trọng đến các ngành công nghiệp phụ trợ, logistics, nông nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, công bằng và thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp KTTN.

Thứ hai, đầu tư và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển của KTTN. Thành phố cần ưu tiên nguồn lực nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối giữa các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại Hải Phòng và Hải Dương với cảng biển, sân bay, đường cao tốc và đường sắt. Phát triển hạ tầng số, hạ tầng logistics, hạ tầng điện - nước và xử lý môi trường, nhằm giảm chi phí đầu vào, nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy doanh nghiệp KTTN mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh.

Thứ ba, nâng cao năng lực nội sinh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp KTTN thông qua các chương trình: hỗ trợ đào tạo, tư vấn quản trị, chuyển giao công nghệ và chuyển đổi số. Thành phố cần phối hợp với các viện, trường, tổ chức quốc tế và KTTN để triển khai các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và vườn ươm doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn. Ngoài ra, cần thúc đẩy hợp tác công - tư trong đầu tư hạ tầng, công nghiệp xanh và phát triển đô thị thông minh, góp phần hình thành hệ sinh thái kinh doanh hiện đại, năng động.

Thứ tư, phát triển mạnh mẽ liên kết vùng và liên kết ngành giữa các doanh nghiệp KTTN trong không gian kinh tế Hải Phòng - Hải Dương, hướng tới hình thành các cụm liên kết giá trị và mạng lưới sản xuất hiệu quả. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo và điều phối, khuyến khích hình thành các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề, các liên minh KTTN trong lĩnh vực logistics, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ... để gia tăng hiệu quả hợp tác, tận dụng quy mô, chia sẻ nguồn lực và cùng phát triển bền vững.

Thứ năm, chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ KTTN. Thành phố cần phối hợp với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học tổ chức đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp, gắn đào tạo với thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, cần có chính sách thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là kỹ sư, chuyên gia công nghệ, quản trị doanh nghiệp, nhằm phục vụ các lĩnh vực đang thiếu hụt nhân lực như logistics, công nghệ số, sản xuất thông minh.

Thứ sáu, cần đẩy mạnh xúc tiến đầu tư – thương mại trong và ngoài nước, tạo điều kiện để doanh nghiệp KTTN tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Tận dụng hiệu quả các FTA và vị trí địa lý chiến lược nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký sở hữu trí tuệ, chứng nhận tiêu chuẩn, tham gia hội chợ, triển lãm và thương mại điện tử. Qua đó, nâng cao năng lực cạnh tranh, vị thế và thương hiệu của doanh nghiệp KTTN Hải Phòng trên thị trường quốc tế./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

​​​1. Chi cục Thống kê tỉnh Hải Phòng (2024). Niên giám thống kê tỉnh Hải Phòng năm 2023, Nxb Thống kê.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017). Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị Khoá XIII về phát triển kinh tế tư nhân.

Ngày nhận bài: 02/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/6/2025; Ngày duyệt đăng: 23/6/2025