Ths. Phạm Thị Thu Huyền

Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường Đại học Văn Lang

Email: huyen.ptt@vlu.edu.vn

Tóm tắt

Từ ngày 1/1/2026, theo Nghị quyết 198/2025/QH15, tất cả hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh sẽ chấm dứt sử dụng phương pháp thuế khoán và chuyển sang phương pháp kê khai. Bên cạnh những khó khăn như năng lực kê khai, điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, việc chuyển đổi này có thể gặp phải một số rào cản mang tính chủ quan như tâm lý ngại thay đổi, thiếu kiến thức về chính sách thuế và lo ngại về gia tăng chi phí... Dựa trên việc phân tích các lợi thế và rào cản trong quá trình triển khai, nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị nhằm gia tăng tính tuân thủ của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh khi chuyển đổi từ phương pháp thuế khoán sang phương pháp kê khai, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế và tạo nền tảng phát triển kinh tế bền vững.

Từ khóa: Tính tuân thủ, phương pháp thuế khoán, phương pháp kê khai, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh

Summary

According to Resolution No. 198/2025/QH15, effective January 1st, 2026, all household businesses and individual businesses will cease using the presumptive tax method and transition to the declaration-based tax method. In addition to practical challenges such as limited tax declaration capacity and inadequate information technology infrastructure, the transition may also face subjective barriers, including resistance to change, lack of tax policy knowledge, and concerns over increased compliance costs. Based on an analysis of both the advantages and the potential obstacles during implementation, the study provides recommendations aimed at enhancing the tax compliance of household and individual businesses during the shift from the presumptive tax method to the declaration-based tax method, thereby contributing to more effective tax administration and laying the foundation for sustainable economic development.

Keywords: Tax compliance, presumptive tax method, declaration-based tax method, household businesses, individual businesses

GIỚI THIỆU

Chuyển đổi từ phương pháp thuế khoán (PPTK) sang phương pháp kê khai (PPKK) đối với hộ kinh doanh (HKD) và cá nhân kinh doanh (CNKD) không thuần túy mang tính kỹ thuật tính toán, mà còn giúp gia tăng tính tuân thủ và minh bạch trong việc quản lý thuế. PPKK kỳ vọng sẽ thúc đẩy người nộp thuế thực hiện kê khai thuế một cách tự giác và đúng quy định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình chuyển đổi còn gặp nhiều rào cản, đặc biệt là tâm lý e ngại, thiếu kiến thức pháp luật thuế và lo ngại về chi phí phát sinh. Cải thiện sự tuân thủ thuế không chỉ phụ thuộc vào hạ tầng kỹ thuật, mà còn đòi hỏi các giải pháp hỗ trợ, truyền thông và hướng dẫn phù hợp. Bài viết phân tích những yếu tố tác động đến tính tuân thủ của HKD, CNKD trong quá trình chuyển đổi phương pháp tính thuế, và đề xuất các phương án để gia tăng hiệu quả quản lý thuế và tạo nền tảng cho sự phát triển ổn định của khu vực kinh tế cá thể.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Tuân thủ thuế

Tuân thủ thuế được hiểu là hành vi mà người nộp thuế thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình theo quy định của pháp luật thuế (Tunçer, 2002). Theo IRS (2009) tuân thủ thuế là sự tự giác và cam kết trong việc thực hiện đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ thuế bao gồm việc tính toán, khai báo và nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế có trách nhiệm xác định chính xác số thuế phải nộp, kê khai trung thực và thanh toán đầy đủ khoản thuế phát sinh qua việc nộp qua tờ khai, khấu trừ hoặc tạm nộp.

Oladipupo và cộng sự (2016) cho biết, có 2 thành phần ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế như: kiến thức và hình phạt vi phạm thuế. Trong đó kiến thức về thuế thể hiện mức độ nhận thức của người nộp thuế về luật thuế và các quy định liên quan. Hình phạt vi phạm thuế được hiểu là các chế tài áp dụng cho hành vi vi phạm luật thuế như nộp chậm, kê khai sai, kê khai thiếu.

Nghiên cứu của TazeguL (2106) cho thấy, “tuân thủ thuế” tự nguyện bị tác động bởi nhiều yếu tố như: tính pháp lý, ứng dụng kế toán, cấu trúc kinh tế và đặc điểm cá nhân như độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân và trình độ học vấn. Kết quả phân tích chỉ ra rằng, nữ giới có cái nhìn tích cực hơn về hệ thống tư pháp và hành chính thuế so với nam giới. Người từ 41 tuổi trở lên có học vấn cao thường đồng thuận với các quy định về thuế hơn người có trình độ tiểu học.

Khi đề cập đến lý thuyết ảnh hưởng đến tính tuân thủ của người nộp thuế, có thể kể đến 2 lý thuyết: Lý thuyết Răn đe và lý thuyết Tâm lý học (Oladipupo và cộng sự, 2016). Trong đó:

Lý thuyết Răn đe cho rằng người nộp thuế là những cá nhân hành động dựa trên động cơ kinh tế, nhằm tối đa hóa lợi ích sau thuế. Họ cân nhắc giữa việc tuân thủ hoặc trốn thuế dựa trên khả năng bị phát hiện và hình thức phạt tương ứng. Vì vậy, muốn gia tăng tính chấp hành thuế, cần tăng mức phạt về hành vi trốn thuế. Lý thuyết này khẳng định tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức phạt và tính chấp hành thuế.

Lý thuyết Tâm lý học cho rằng hành vi tuân thủ thuế không chỉ chịu tác động từ yếu tố kinh tế mà còn phụ thuộc vào yếu tố tâm lý, đạo đức và nhận thức cá nhân. Người nộp thuế có thể vẫn tuân thủ nghĩa vụ thuế dù xác suất bị phát hiện thấp, nếu họ có nhận thức tích cực và thái độ đúng đắn đối với hệ thống thuế. Khác với lý thuyết Răn đe, lý thuyết này nhấn mạnh vai trò của giáo dục thuế trong việc nâng cao ý thức tự giác. Theo đó, nâng cao nhận thức thông qua tuyên truyền và giáo dục sẽ góp phần thúc đẩy tuân thủ thuế một cách bền vững.

Phương pháp kê khai

Khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Thông tư 40/2021/TT-BTC ngày 1/6/2021 của Bộ Tài chính quy định: “PPKK là phương pháp khai thuế, tính thuế theo tỷ lệ trên doanh thu thực tế phát sinh theo kỳ tháng hoặc quý” trong đó người nộp thuế nộp theo PPKK là HKD, CNKD có quy mô lớn hoặc trường hợp HKD, CNKD chưa đủ điều kiện nhưng vẫn áp dụng theo PPKK.

Điều 10 Nghị quyết 198/2025/QH15 có nêu từ 1/1/2026, HKD, CNKD không sử dụng PPTK chuyển sang PPKK. Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 1/6/2025, trường hợp HKD, CNKD có doanh thu trên 1.000.000.000 đồng trong 1 năm sẽ không được sử dụng PPTK mà phải chuyển sang kê khai nộp thuế trực tiếp đúng trên doanh thu thực. Riêng các HKD có doanh thu dưới ngưỡng này tạm miễn đầu năm sau.

Như vậy tăng cường tính tuân thủ đối với HKD, CNKD khi áp dụng PPKK theo Nghị quyết 198/2025/QH15 được hiểu là gia tăng tinh thần tự giác của HKD, CNKD nói riêng hay của người nộp thuế nói chung trong việc tính toán, kê khai và nộp thuế theo PPKK thay cho PPTK.

Phương pháp nghiên cứu

Bài viết sử dụng phương pháp định tính dựa trên việc tổng hợp, phân tích các khía cạnh về việc tuân thủ thuế, đồng thời dựa trên thực trạng khi HKD và CNKD áp dụng PPKK và đưa ra phương án để nâng cao tính tuân thủ của HKD và CNKD trong quá trình nộp và kê khai thuế.

THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI TỪ PHƯƠNG PHÁP THUẾ KHOÁN SANG PHƯƠNG PHÁP KHAI THUẾ THUẾ

Yêu cầu chuyển đổi

Theo thống kê, quý I/2025, tổng thu ngân sách từ HKD, CNKD là 8.695 tỷ đồng, bằng 27,2% tổng thu cả năm và so với quý I/2024 tăng 25,7%. Lũy kế đến 31/03/2025, tổng số lượng HKD, CNKD sử dụng PPTK là 1.975.373 hộ (Phương Linh, 2025). Tuy nhiên theo đánh giá từ phía cơ quan quản lý thuế, số thu trên vẫn chưa phản ánh đầy đủ và chính xác số thuế mà HKD hay CNKD phải nộp. Trước nhu cầu tất yếu phải thay đổi, khoản 6 Điều 10 Nghị quyết 198/2025 yêu cầu bắt buộc kể từ ngày 01/01/2026 tất cả HKD, CNKD đều phải chuyển sang PPKK. Riêng đối với CNKD khi chuyển sang PPKK có thể lựa chọn một trong 2 phương pháp: PPKK và PPTK thuế theo từng lần phát sinh tùy vào quy mô của doanh số.

Ngoài ra tại khoản 8 Điều 1 Nghị định 70/2025/NĐ-CP có quy định như sau: “HKD, CNKD theo quy định tại khoản 1 Điều 51 có mức doanh thu hằng năm từ 1 tỷ đồng trở lên, khoản 2 Điều 90, khoản 3 Điều 91 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và doanh nghiệp có hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, trong đó có bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng (trung tâm thương mại; siêu thị; bán lẻ (trừ ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác); ăn uống; nhà hàng; khách sạn; dịch vụ vận tải hành khách, dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho vận tải đường bộ, dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí, hoạt động chiếu phim, dịch vụ phục vụ cá nhân khác theo quy định về hệ thống ngành kinh tế Việt Nam) sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế”. Như vậy bắt đầu từ 1/6/2025 tất cả các HKD và CNKD trong 1 năm mà doanh thu trên 1.000.000.000 đồng bắt buộc dùng hóa đơn điện tử. Đây là trường hợp bắt buộc phải sử dụng phương pháp kê khai.

Lợi ích khi chuyển đổi

Đối với người nộp thuế

Thứ nhất, giảm thiểu sai sót, tránh các chi phí phạt không mong muốn. Hầu hết các HKD, CNKD đều không có khả năng thực hiện đầy đủ sổ sách như các doanh nghiệp lớn, việc kê khai và xác định số thuế phải nộp dựa theo doanh thu bán hàng được xem là phương pháp nhằm đơn giản hóa cách tính toán nhưng vẫn đảm bảo được chính xác số thuế phải cần nộp qua đó giúp HKD, CNKD xác định đúng, nộp đúng, nộp đủ số thuế theo yêu cầu giúp giảm các sai sót đồng thời tránh được các chi phí phạt không mong muốn do: kê khai sai, kê khai thiếu, gian lận…

Thứ hai, nâng cao nhận thức, tăng khả năng tuân thủ thuế. Khi dùng PPKK, người nộp thuế có trách nhiệm tự xác định doanh thu, tự thực hiện thủ tục kê khai và nộp thuế từ đó giúp nâng cao ý thức hơn về nghĩa vụ thuế, thúc đẩy tính tự giác, ý thức tuân thủ pháp luật thuế trong cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ ba, tạo điều kiện chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Khi áp dụng phương pháp kê khai, người nộp thuế bước đầu làm quen với việc thu thập chứng từ, hạch toán, lưu trữ sổ sách kế toán từ đó tiến đến chuyển đổi hình thức từ HKD, CNKD sang doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa các khoản chi chi phí đầu vào để giảm số thuế phải nộp, tối đa hóa lợi nhuận

Đối với cơ quan quản lý, điều hành thuế

Thứ nhất, tăng hiệu quả giám sát và chống thất thu thuế. Việc sử dụng hóa đơn điện tử và máy tính tiền giúp cơ quan thuế kiểm tra, đối chiếu dữ liệu dễ dàng, xác định đúng và đủ doanh thu đầu ra từ đó xác định đúng số thuế phải nộp tốt hơn khi sử dụng PPTK dựa trên ước tính thường xảy ra rủi ro do ấn định sai thuế.

Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng. Sử dụng PPKK khi kê khai và nộp thuế, đặc biệt là việc bán hàng xuất hóa đơn điện tử từ máy tính tiền giúp HKD, CNKD xác định chính xác doanh thu, từ đó xác định đúng số thuế phải nộp, giảm thiểu tình trạng kê sai, kê thiếu hoặc kê khai không đúng, giúp cơ quan thuế có thể kiểm tra, giám sát và quản lý việc nộp thuế một cách khoa học, rõ ràng và chính xác hơn.

Một số khó khăn bất cập khi chuyển đổi

Nhận thức về pháp luật thuế

Phần lớn HKD, CNKD chưa hiểu rõ ưu điểm của phương pháp kê khai, chưa xác định và phân biệt được điểm khác biệt giữa PPTK và phương pháp kê khai. Nhiều thắc mắc xung quanh việc xác định kỳ kê khai như khi chuyển đổi họ phải kê khai theo tháng, theo quý, từng lần phát sinh hay thủ tục, quy trình kê khai, hồ sơ kê khai như thế nào.

Có thể nói, việc chuyển đổi từ PPTK sang PPKK là cả một quá trình, đòi hỏi người chuyển đổi cần được thông tin và hướng dẫn một chi tiết các bước thực hiện. Tuy nhiên, thực tế hầu hết các HKD, CNKD đều ở quy mô nhỏ lẻ, thậm chí là các tiểu thương kinh doanh các sạp hàng ở chợ không có các kiến thức chuyên ngành liên quan đến kế toán, thuế do đó việc cập nhật, bổ sung các quy định về pháp luật thuế còn tương đối ít.

Chuyển đổi từ PPTK sang PPKK được xem là một chính sách mới. Việc hiểu rõ các Nghị quyết, Thông tư, Quyết định… đòi hỏi người đọc phải có kiến thức chuyên môn nên dễ gây khó khăn, tâm lý ngại trong việc tìm hiểu, áp dụng. Trong khi đó, khâu tổ chức đào tạo và tập huấn của cơ quan thuế chưa phủ đều được các địa bàn, các lĩnh vực kinh doanh. Thực tế cho thấy, tập huấn của cơ quan thuế thường chỉ tập trung ở các trung tâm kinh tế, thành phố, mà chưa có nhiều buổi tập huấn ở các vùng sâu, vùng xa; nội dung tập huấn đôi khi chưa có nhiều nội dung hướng dẫn thực hành tại chỗ; các kênh thông tin liên lạc qua email hoặc điện thoại đôi khi bị quá tải...

Áp lực về chi phí, nhân lực thực hiện

Mong muốn của người nộp thuế khi chuyển đổi từ PPTK và phương pháp khai thuế là không phát sinh thêm chi phí. Tuy nhiên, bước đầu áp dụng PPKK sẽ phát sinh một số chi phí bắt buộc liên quan chi phí đầu tư đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu và chi phí nhân lực thực hiện, bởi hầu hết HKD và CNKD đều hạn chế về trình độ công nghệ thông tin và chuyên môn kế toán.

Tâm lý lo sợ, ngại thay đổi

Không đủ nhận thức về pháp luật thuế, áp lực gia tăng về chi phí nhân lực thực hiện những nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý e ngại của HKD và CKND khi buộc phải chuyển đổi sang phương pháp kê khai. Ngoài ra việc xuất hóa đơn điện tử, đóng tiền thuế trên doanh thu hàng bán cũng tạo ra một nỗi lo khác là có thể đóng thuế cao hơn phương pháp thuế khoán.

Từ việc không phải ghi chép, không cần hóa đơn đầu vào, sử dụng tiền mặt trong quá trình kinh doanh sang việc phải xuất hóa đơn điện tử, ghi nhận giao dịch, lưu trữ chứng từ, hạch toán sổ sách làm cho HKD, CNKD cảm thấy gia tăng thêm thời gian, thiếu linh hoạt, dẫn đến tâm lý thụ động, ngại thay đổi. Việc minh bạch hóa sổ sách, chứng từ khâu đầu ra đầu vào cũng tạo ra tâm lý lo ngại bị kiểm tra, thanh tra nguồn gốc xuất xứ hàng hóa.

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP KÊ KHAI

Để giải quyết những khó khăn trên, một số khuyến nghị có thể được xem xét như:

Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức về pháp luật thuế

Cơ quan thuế biên soạn các tài liệu truyền thông về PPKK, nên sử dụng các tài liệu hướng dẫn chi tiết, cụ thể có kèm hình ảnh minh họa trực quan như: infographic, video... Nội dung tài liệu hướng dẫn ngoài cung cấp file giấy có thể sử dụng thêm trên các nền tảng Internet để người nộp thuế dễ dàng tiếp cận như: Email, Zalo, Facebook... Soạn và cung cấp bộ câu hỏi thường gặp trong quá trình chuyển đổi theo phương pháp kê khai, cụ thể theo từng nhóm ngành kinh doanh: thực phẩm, quần áo, tạp hóa… giúp HKD, CNKD có thể tìm kiếm khi có nhu cầu.

Tại địa phương, nên tổ chức lớp tập huấn theo từng nhóm nhỏ, có thể chia theo cụm kinh doanh, ngành nghề hoặc theo địa bàn, tại những địa điểm như chợ, quầy, sạp hàng… với phương châm “càng chi tiết, càng cụ thể càng tốt”.

Hỗ trợ cơ sở hạ tầng, thiết bị giảm áp lực về chi phí và nhân lực thực hiện

Nên ban hành chính sách miễn, giảm thuế trong 6 hoặc 12 tháng đầu cho người nộp thuế mới chuyển đổi để bù đắp chi phí đầu tư ban đầu. Đối với các địa phương vùng sâu, vùng xa, Nhà nước có thể hỗ trợ thêm gói Internet để hỗ trợ việc xuất hóa đơn và kê khai thuế. Nghiên cứu, phát triển phần mềm kế toán, phần mềm xuất hóa đơn điện tử đơn giản, dễ dùng, có hướng dẫn bằng tiếng Việt, có hỗ trợ từ xa… áp dụng riêng cho HKD, CNKD, có thể ưu đãi với giá rẻ thậm chí miễn phí dành riêng cho HKD, CNKD nhỏ, lẻ.

Tăng cường thêm các kênh hỗ trợ từ cơ quan quản lý

Thiết lập hệ thống "Tổ hỗ trợ kê khai lưu động" tại các chợ, cụm dân cư, định kỳ hàng tuần; thành lập Tổ phản ứng nhanh 24/7 hỗ trợ thông qua hotline, Zalo, email trong giai đoạn đầu chuyển đổi; tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo và trợ lý ảo hỗ trợ trả lời câu hỏi phổ biến của HKD, CNKD mọi lúc, mọi nơi; xây dựng bản tin thuế dành riêng cho hộ kinh doanh, phát hành đều đặn qua Zalo, email, bảng tin phường/xã, có kèm phần hỏi - đáp.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2025). Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ.

2. Internal Revenue Services (IRS) (2009) Update on Reducing the Federal Tax Gap and Improving Voluntary Compliance, http://www.irs.gov/pub/newsroom/tax_gap_report_-final_version.pdf

3. Phương Linh (2025). Cục thuế đánh giá số thuế hộ, cá nhân đã nộp trong 3 tháng đầu năm chưa phản ánh đúng thực tế, https://vneconomy.vn/cuc-thue-danh-gia-so-thue-ho-ca-nhan-da-nop-trong-3-thang-dau-nam-chua-phan-anh-dung-thuc-te.htm

4. Oladipupo, A. O., & Obazee, U. (2016). Tax knowledge, penalties and tax compliance in small and medium scale enterprises in Nigeria. IBusiness, 8(1), 1-9.

5. Quốc hội (2025). Nghị quyết 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.

6. TazeguL, A. (2016). Evaluation of factors having impact on tax compliance as regards to taxpayers: Application for the city of Kars. Open Journal of Social Sciences, 4(08), 80.

7. Tunçer, M. (2002). Effect of government-individual relations on tax compliance and Turkey. Faculty of Political Sciences, Ankara University, 57-53.

Ngày nhận bài: 17/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 27/7/2025; Ngày duyệt xuất bản: 28/7/2025