Hoàn thiện cơ chế thực thi chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm: Nhận diện điểm nghẽn và kiến nghị giải pháp
Trần Thế Mỹ
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Email: mytt@hcmue.edu.vn
Tóm tắt
Theo Nghị định 116/2020/NĐ‑CP, từ năm học 2021-2022, sinh viên theo học ngành đào tạo giáo viên chính quy được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ học phí và mức trợ cấp sinh hoạt 3,63 triệu đồng/tháng. Sau 3 năm triển khai, chính sách đã góp phần nâng điểm chuẩn và số thí sinh đăng ký vào ngành sư phạm, song cũng bộc lộ nhiều điểm nghẽn trong thực thi: nhiều địa phương không thực hiện đặt hàng, kinh phí trung ương cấp chậm, một bộ phận sinh viên e ngại cam kết bồi hoàn nên từ chối hỗ trợ. Bài viết trình bày bối cảnh chính sách, phân tích những khó khăn trong triển khai tại một số trường sư phạm, đặc biệt qua trường hợp Trường ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; đánh giá những điểm mới của Nghị định 60/2025/NĐ‑CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 116/2020/NĐ-CP nhằm khắc phục các bất cập. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm.
Từ khóa: Chính sách hỗ trợ, sinh viên sư phạm, Nghị định 116/2020/NĐ‑CP, Nghị định 60/2025/NĐ‑CP, bồi hoàn kinh phí, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
Summary
According to Decree 116/2020/ND-CP, from the 2021-2022 academic year, students enrolled in full-time teacher education programs have been fully subsidized for tuition fees and provided with a monthly living allowance of 3.63 million VND. After three years of implementation, the policy has helped raise admission thresholds and increase the number of applicants to teacher training programs. However, several bottlenecks have emerged in practice: many localities have failed to place training orders, central budget allocations have been delayed, and some students have declined support due to concerns about reimbursement commitments. This article presents the policy context, analyzes implementation challenges at several teacher education institutions, particularly the case of Ho Chi Minh City University of Education, evaluates the new provisions under Decree 60/2025/ND-CP amending and supplementing Decree 116/2020/ND-CP, and offers recommendations for improving the policy implementation mechanism supporting teacher education students.
Keywords: Support policy, teacher education students, Decree 116/2020/ND-CP, Decree 60/2025/ND-CP, reimbursement commitments, Ho Chi Minh City University of Education
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, đội ngũ nhà giáo giữ vai trò quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cho thấy hệ thống giáo dục công lập vẫn thiếu hàng chục nghìn giáo viên ở các cấp, đặc biệt ở bậc mầm non và tiểu học. Bên cạnh đó, thu nhập và môi trường làm việc chưa thật sự hấp dẫn khiến nhiều học sinh giỏi không mặn mà với nghề sư phạm. Để thu hút nhân lực chất lượng cao vào đào tạo giáo viên, Chính phủ ban hành Nghị định 116/2020/NĐ‑CP quy định chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm. Sinh viên đủ điều kiện sẽ được Nhà nước hỗ trợ 100% học phí và nhận 3,63 triệu đồng mỗi tháng trong 10 tháng/năm học. Đổi lại, họ phải cam kết công tác trong ngành Giáo dục tối thiểu gấp đôi thời gian đào tạo; nếu vi phạm, phải bồi hoàn toàn bộ kinh phí.
Sau 3 năm triển khai, chính sách đã tạo ra tác động tích cực: điểm chuẩn các ngành sư phạm tăng rõ rệt; nhiều trường sư phạm tuyển sinh đủ chỉ tiêu và chất lượng đầu vào tốt hơn. Song các bên thực thi - Bộ GD&ĐT, địa phương và cơ sở đào tạo - đang gặp không ít khó khăn: ngân sách trung ương chỉ đáp ứng khoảng nửa nhu cầu kinh phí mỗi năm; nhiều tỉnh, thành phố không tham gia đặt hàng nên nguồn kinh phí phụ thuộc gần như hoàn toàn vào ngân sách trung ương; kinh phí cấp chậm làm sinh viên phải chờ đợi nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Có trường hợp sinh viên khóa 2021 phải đến đầu năm 2025 mới nhận đủ 35 tháng trợ cấp, tổng cộng khoảng 127 triệu đồng/người
Thực trạng này đặt ra câu hỏi về tính khả thi và công bằng của chính sách theo Nghị định 116/2020 cũng như nhu cầu điều chỉnh cơ chế thực thi. Nghị định 60/2025/NĐ‑CP được ban hành tháng 3/2025 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 116/2020 theo hướng giao dự toán kinh phí theo phân cấp ngân sách thay vì bắt buộc địa phương đặt hàng. Bài viết này tập trung nhận diện những điểm nghẽn trong thực thi chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế thực thi, đặc biệt dưới góc nhìn quản lý công và kinh nghiệm từ Trường ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
ĐIỂM NGHẼN TRONG THỰC THI NGHỊ ĐỊNH 116/2020/NĐ‑CP
Mô hình đặt hàng và giao nhiệm vụ ít được áp dụng
Nghị định 116/2020 thiết kế cơ chế thực thi dựa trên 2 phương thức: (1) các địa phương “giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu” đào tạo giáo viên theo nhu cầu; và (2) Bộ GD&ĐT hỗ trợ sinh viên theo “nhu cầu xã hội” đối với số lượng sinh viên ngoài chỉ tiêu đặt hàng. Trong thực tế, rất ít địa phương tham gia đặt hàng. Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, đến năm 2024 chỉ khoảng 23/63 tỉnh, thành phố ký hợp đồng đặt hàng với các trường sư phạm; số sinh viên theo diện này chỉ chiếm khoảng 20% tổng số sinh viên sư phạm. Nhiều tỉnh, thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng không tham gia đặt hàng vì có nguồn nhân lực dồi dào và khó thống nhất cơ chế chi trả từ ngân sách địa phương. Hệ quả là phần lớn sinh viên sư phạm thuộc diện “nhu cầu xã hội”, kinh phí phụ thuộc vào ngân sách trung ương.
Kinh phí cấp không đủ và chậm trễ
Theo Nghị định 116/2020, kinh phí hỗ trợ học phí và sinh hoạt phí phải được Bộ Tài chính bố trí trong dự toán hằng năm và cấp cho cơ sở đào tạo để chi trả cho sinh viên. Tuy nhiên, giai đoạn 2021-2023, ngân sách trung ương chỉ đáp ứng khoảng 50-60% nhu cầu kinh phí. Các cơ sở đào tạo phải tạm ứng quỹ tự chủ hoặc mượn kinh phí đơn vị khác để chi trả, nhiều trường không đủ khả năng tạm ứng nên khoản trợ cấp bị “nợ” kéo dài. Trường hợp Trường ĐH Sài Gòn là minh chứng điển hình: 498 sinh viên khóa 2021 đã nhận hơn 127 triệu đồng/người vào tháng 1-2025, tương đương 35 tháng trợ cấp cộng dồn.
Không ít sinh viên gặp khó khăn tài chính nghiêm trọng phải nghỉ học hoặc làm thêm nhiều để trang trải cuộc sống. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến những sinh viên giỏi e ngại đăng ký hỗ trợ và ảnh hưởng tới sự yên tâm học tập.
Quy trình thủ tục phức tạp, trách nhiệm chưa rõ ràng
Thực hiện Nghị định 116/2020 đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ GD&ĐT, Bộ Tài chính, địa phương và trường đại học. Nhiều văn bản hướng dẫn chưa ban hành kịp thời, quy trình đặt hàng, ký hợp đồng, thanh toán và thu hồi kinh phí chưa cụ thể khiến cơ sở đào tạo lúng túng. Nghị định 116/2020 còn cho phép hình thức “đấu thầu đào tạo”, dẫn tới nhiều thủ tục, song thực tế hầu như không đơn vị nào áp dụng. Hơn nữa, quy định mức hỗ trợ đồng đều cho mọi ngành sư phạm mà không tính tới nhu cầu tuyển dụng thực tế khiến một số ngành (ví dụ sư phạm tiếng Anh, sư phạm Tin học) thu hút sinh viên ngoài nhu cầu sử dụng, tăng nguy cơ sinh viên phải bồi hoàn sau tốt nghiệp.
Ràng buộc bồi hoàn và tâm lý người học
Một điểm gây tranh luận của Nghị định 116/2020 là cam kết bồi hoàn. Sinh viên hưởng hỗ trợ phải công tác trong ngành Giáo dục tối thiểu gấp đôi thời gian đào tạo, nếu không phải hoàn trả toàn bộ kinh phí đã nhận. Nhiều sinh viên lo ngại không tìm được việc đúng ngành hoặc không muốn làm nghề giáo lâu dài nên chọn từ chối hỗ trợ. Báo chí ghi nhận những đợt tuyển sinh gần đây có tới 30-60% thí sinh trúng tuyển ngành sư phạm không đăng ký hưởng chính sách hỗ trợ. Điều này vừa làm lãng phí nguồn kinh phí, vừa khiến chính sách không đạt được mục tiêu thu hút người giỏi vào nghề.
ĐIỂM MỚI CỦA NGHỊ ĐỊNH 60/2025/NĐ‑CP VÀ Ý NGHĨA
Trước các bất cập nêu trên, ngày 3/3/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 116/2020, có hiệu lực từ 20/4/2025. Văn bản này đưa ra những điều chỉnh mang tính then chốt:
Chuyển từ đặt hàng bắt buộc sang giao dự toán
Nghị định 60/2025 quy định: kinh phí hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt cho sinh viên sư phạm được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm và “được cấp cho cơ sở đào tạo giáo viên theo hình thức giao dự toán theo phân cấp ngân sách”. Các bộ, ngành, địa phương vẫn có thể thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng nếu có nhu cầu, nhưng không bắt buộc. Cách tiếp cận này nhằm đảm bảo nguồn kinh phí ổn định, tránh tình trạng địa phương không tham gia đặt hàng khiến sinh viên không được hỗ trợ.
Quy định rõ trách nhiệm chi trả
Sau khi nhận kinh phí, cơ sở đào tạo phải chi trả tiền hỗ trợ sinh hoạt phí vào tài khoản ngân hàng của sinh viên trước ngày 15 hàng tháng. Quy định này nhằm chấm dứt tình trạng chi trả chậm kéo dài. Đồng thời, ngân sách trung ương được phân bổ theo nguyên tắc hỗ trợ có mục tiêu cho địa phương, qua đó tăng tính chủ động trong kế hoạch tài chính của các bộ, ngành.
Sửa đổi thủ tục đăng ký và công khai thông tin
Nghị định 60/2025 bãi bỏ hình thức đấu thầu, quy định rõ thời hạn 30 ngày để thí sinh trúng tuyển nộp đơn đề nghị hưởng hỗ trợ; cơ sở đào tạo và địa phương phải công khai danh sách sinh viên được hưởng trên cổng thông tin của Bộ GD&ĐT. Quy trình xét duyệt giữa trường và địa phương phải bảo đảm công bằng, minh bạch.
Làm rõ chế độ bồi hoàn
Nghị định 60/2025 giữ nguyên mức hỗ trợ và yêu cầu làm việc gấp đôi thời gian đào tạo nhưng quy định cụ thể hơn về các trường hợp miễn bồi hoàn: sinh viên làm việc đủ thời gian hoặc được điều động công tác ngoài ngành có lý do chính đáng. Ngoài ra, văn bản nhấn mạnh thời gian làm việc được tính theo số ngày công, làm rõ quyền và nghĩa vụ của sinh viên trong trường hợp tạm dừng học.
Những điều chỉnh trên cho thấy Chính phủ đã lắng nghe phản ánh thực tiễn, hướng tới một cơ chế tài chính linh hoạt hơn, giảm thủ tục và bảo đảm quyền lợi của sinh viên. Tuy vậy, để chính sách đi vào cuộc sống cần có sự phối hợp đồng bộ và một số giải pháp tiếp theo.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THỰC THI
Bảo đảm nguồn kinh phí ổn định và kịp thời
Bộ Tài chính cần chủ động dự toán đủ 100% kinh phí hỗ trợ sinh viên sư phạm trong dự toán ngân sách hằng năm. Việc áp dụng cơ chế giao dự toán theo Nghị định 60/2025 phải gắn với quy trình giải ngân nhanh gọn để tiền đến tay sinh viên đúng kỳ hạn. Chính phủ có thể thành lập quỹ dự phòng hoặc lồng ghép vào các chương trình an sinh xã hội, tránh trường hợp chưa kịp nhận khoản hỗ trợ thì giá sinh hoạt đã tăng cao. Cơ sở đào tạo được phép tạm ứng từ ngân sách sự nghiệp giáo dục khi chậm cấp kinh phí, song cần được Nhà nước hoàn trả đủ và kịp thời.
Đơn giản hóa thủ tục và tăng cường giám sát
Quy trình đăng ký hỗ trợ nên được số hóa hoàn toàn, từ nộp hồ sơ, xác nhận cam kết tới chi trả kinh phí. Các trường sư phạm cần xây dựng cổng thông tin điện tử để sinh viên tra cứu tiến độ giải ngân, tình trạng cam kết và bồi hoàn. Bộ GD&ĐT và Bộ Tài chính cần có hệ thống dữ liệu liên thông để theo dõi toàn bộ sinh viên hưởng hỗ trợ trên phạm vi quốc gia; dữ liệu cần được công khai phần lớn (trừ thông tin cá nhân) để xã hội giám sát. Công tác kiểm toán, thanh tra tài chính phải diễn ra định kỳ nhằm phát hiện và xử lý kịp thời trường hợp chi sai đối tượng, chi không đủ hoặc chậm chi.
Gắn hỗ trợ với nhu cầu sử dụng và nâng cao động lực nghề nghiệp
Mục tiêu của chính sách không chỉ là hỗ trợ tài chính mà còn thu hút người giỏi gắn bó với nghề giáo. Do đó, Bộ GD&ĐT nên chủ trì dự báo nhu cầu giáo viên từng ngành, từng địa phương, từ đó hướng dẫn các trường phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp. Nên ưu tiên mức hỗ trợ cao hơn cho các ngành đang thiếu giáo viên nghiêm trọng (giáo dục mầm non, giáo dục đặc biệt, các môn Khoa học tự nhiên, Tin học, Ngoại ngữ…) và khuyến khích sinh viên cam kết về địa phương khó khăn. Mặt khác, cần có cơ chế tuyển dụng linh hoạt hơn như cho phép tính thời gian giảng dạy ở cơ sở ngoài công lập hoặc trung tâm giáo dục thường xuyên vào nghĩa vụ công tác, miễn là sinh viên tiếp tục đóng góp cho ngành Giáo dục. Tăng thu nhập khởi điểm, cải thiện môi trường làm việc và cơ hội phát triển nghề nghiệp cho giáo viên sẽ giúp cam kết bồi hoàn trở nên hợp lý và khả thi.
Nâng cao vai trò của cơ sở đào tạo
Các trường sư phạm không chỉ là “bên nhận kinh phí” mà phải chủ động hơn trong tổ chức thực hiện. Nên thành lập tổ công tác chuyên trách về chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm để tư vấn đầu vào, hướng dẫn sinh viên hoàn thành thủ tục, theo dõi tiến độ học tập và cam kết nghề nghiệp. Cơ sở đào tạo cần phối hợp chặt chẽ với các Sở GD&ĐT để xây dựng kế hoạch tuyển dụng, hỗ trợ sinh viên tìm việc sau tốt nghiệp, tránh tình trạng sinh viên phải bồi hoàn vì thất nghiệp. Đồng thời, cần tuyên truyền rộng rãi về ý nghĩa nhân văn của chính sách.
Sửa đổi quy định về bồi hoàn theo hướng linh hoạt
Các quy định về bồi hoàn nên được điều chỉnh theo hướng nhân văn hơn. Thay vì yêu cầu công tác gấp đôi thời gian đào tạo trong mọi trường hợp, có thể áp dụng cơ chế lũy tiến: làm đủ thời gian bằng thời gian được hỗ trợ thì miễn bồi hoàn toàn bộ; làm ít hơn thì hoàn trả phần hỗ trợ tương ứng. Đối với sinh viên gặp hoàn cảnh đặc biệt (tai nạn, ốm đau dài ngày, gia đình khó khăn), nên có hội đồng xét miễn giảm bồi hoàn. Việc quy định rõ thời gian điều động, bố trí công tác ngoài ngành Giáo dục được miễn bồi hoàn như Nghị định 60/2025 đã đề cập là hướng đi đúng và cần được hướng dẫn chi tiết để thực thi thống nhất.
Thiết lập cơ chế phản hồi 2 chiều
Cần có kênh phản hồi và tham vấn thường xuyên giữa sinh viên, cơ sở đào tạo, địa phương và các bộ, ngành. Thông qua các diễn đàn trực tuyến, hội nghị định kỳ, các bên có thể chia sẻ khó khăn, đề xuất giải pháp và điều chỉnh kịp thời. Việc lắng nghe ý kiến của sinh viên - đối tượng thụ hưởng - là cần thiết để chính sách phù hợp thực tiễn và tạo niềm tin. Ngoài ra, báo, tạp chí chuyên ngành và cơ quan khoa học nên phát huy vai trò giám sát và phản biện công khai, góp phần hoàn thiện chính sách.
KẾT LUẬN
Chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm là bước đột phá của Nhà nước nhằm thu hút người giỏi vào nghề giáo và giải quyết tình trạng thiếu giáo viên. Nghị định 116/2020/NĐ‑CP đã mở ra cơ hội nhưng quá trình triển khai gặp nhiều điểm nghẽn về cơ chế đặt hàng, nguồn kinh phí và thủ tục, khiến quyền lợi của sinh viên bị ảnh hưởng và mục tiêu chính sách chưa đạt trọn vẹn. Việc ban hành Nghị định 60/2025/NĐ‑CP với các điều chỉnh như giao dự toán kinh phí theo phân cấp ngân sách, quy định rõ trách nhiệm chi trả và làm rõ trường hợp miễn bồi hoàn là bước đi tích cực nhằm khắc phục bất cập và tăng tính khả thi. Tuy vậy, để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Trung ương và địa phương, đơn giản hóa thủ tục, bảo đảm kinh phí ổn định, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, nâng cao động lực nghề nghiệp và điều chỉnh quy định bồi hoàn theo hướng nhân văn. Các giải pháp đề xuất trong bài viết hy vọng góp phần xây dựng cơ chế thực thi chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm công bằng, hiệu quả và bền vững, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giáo dục trong thời kỳ mới.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo Lao Động (2025). “Nợ” hơn 127 triệu đồng tiền hỗ trợ sinh hoạt phí: Sinh viên sư phạm thở phào khi nhận đủ tiền, ngày 17/1/2025.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2024). Báo cáo tổng kết 3 năm thực hiện Nghị định 116/2020/NĐ‑CP.
3. Chính phủ (2020). Nghị định số 116/2020/NĐ‑CP ngày 25/9/2020 quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm.
4. Chính phủ (2025). Nghị định số 60/2025/NĐ‑CP ngày 3/3/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2020/NĐ‑CP quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm.
5. Một số bài viết và báo cáo khoa học về chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm và quản lý giáo dục.
| Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/9/2025; Ngày duyệt đăng: 23/9/2025 |

Bình luận