ThS. Triệu Thị Cẩm Nhung

Trường Chính trị TP. Cần Thơ

Email: trieuthicamnhung@truongchinhtrisoctrang.edu.vn

Tóm tắt

Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế và lợi ích kinh tế của thành viên các hợp tác xã nông nghiệp. Bài viết phân tích tác động biến đổi khí hậu đến sự thay đổi mô hình sản xuất, thu nhập của thành viên hợp tác xã nông nghiệp tại TP. Cần Thơ. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường khả năng thích ứng và bảo đảm lợi ích kinh tế cho thành viên trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.

Từ khóa: Lợi ích kinh tế, hợp tác xã nông nghiệp, biến đổi khí hậu, TP. Cần Thơ

Summary

Climate change is causing serious impacts on agricultural production, directly affecting the livelihoods and economic benefits of members of agricultural cooperatives. This article analyzes the impact of climate change on changes in production models and the income of cooperative members in Can Tho City. Based on the findings, it proposes solutions to enhance adaptive capacity and ensure economic benefits for members in the increasingly severe context of climate change.

Keywords: Economic benefits, agricultural cooperatives, climate change, Can Tho City

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thời gian qua, các hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) ở TP. Cần Thơ đã khẳng định vai trò quan trọng trong nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và kết nối giữa các nông hộ nhỏ lẻ với các bên có liên quan để hình thành các chuỗi giá trị ngành hàng bền vững. Với sự khuyến khích và hỗ trợ tích cực của chính quyền địa phương và các ngành chức năng, nông dân tại Thành phố đã liên kết, hình thành được ngày càng nhiều HTXNN và phát triển đa dạng dịch vụ phục vụ cho xã viên cùng những hộ dân, doanh nghiệp có nhu cầu. Tuy vậy, việc phát triển các HTXNN vẫn còn gặp nhiều khó khăn bởi tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH). Điều này đã gây ảnh hưởng đến HTXNN và thành viên HTX. Vì vậy, cần thiết phải có giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước và cả các HTXNN để đảm bảo lợi ích kinh tế của thành viên.

NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG VIỆC ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA THÀNH VIÊN TRONG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TP. CẦN THƠ

BĐKH đang là thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ XXI, gây tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, BĐKH là một nguy cơ hiện hữu đe dọa mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Các lĩnh vực dễ bị tổn thương và chịu tác động mạnh mẽ nhất của BĐKH là tài nguyên nước, đất, nông - lâm - ngư nghiệp. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), trong đó có Cần Thơ, được xếp vào nhóm những vùng dễ bị tổn thương nhất bởi tác động của BĐKH (Trần Đại Nghĩa, 2018).

TP. Cần Thơ nằm ở trung tâm vùng ĐBSCL, giữ vai trò đầu mối kết nối liên tỉnh. Xây dựng và phát triển TP. Cần Thơ trở thành trung tâm vùng, sinh thái, văn minh, hiện đại, mang đậm bản sắc sông nước vùng ĐBSCL là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa không chỉ về kinh tế - xã hội mà cả về chính trị, quốc phòng, an ninh. Để hiện thực hóa mục tiêu trên, TP. Cần Thơ cần quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ứng phó với BĐKH, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Số lượng HTXNN theo địa giới TP. Cần Thơ sau sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh là 633 HTXNN, trong đó Sóc Trăng (cũ) có 203 HTXNN; Hậu Giang (cũ) có 245 HTXNN; TP. Cần Thơ (cũ) có 185 HTXNN (Liên minh HTX TP. Cần Thơ, 2024). Thời gian qua, BĐKH đã gây ra những khó khăn nhất định cho hoạt động sản xuất của thành viên trong các HTXNN trên địa bàn Tỉnh. Một số tác động chính của BĐKH gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của thành viên trong các HTXNN ở TP. Cần Thơ như: tăng nhiệt độ, hạn hán kéo dài; ngập úng, triều cường, xâm nhập mặn sâu vào nội đồng; sạt lở bờ sông, bờ biển tác động nghiêm trọng đến nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và đời sống người dân. Cụ thể, năm 2024, xâm nhập mặn vùng ven biển tại ĐBSCL gia tăng ảnh hưởng đến lấy nước cho sản xuất nông nghiệp tại các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng; làm cho 43 ha lúa tại tỉnh Sóc Trăng (cũ) bị mất trắng. Khoảng 73.900 hộ ở ĐBSCL (2,1% số hộ dân nông thôn) bị thiếu nước sinh hoạt tập trung tại 7 tỉnh Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau (Hà My, 2024). Diện tích lúa bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn ở Sóc Trăng năm 2024 là 65,5 ha, nguyên nhân do một bộ phận nông dân tiếp tục sản xuất vụ Đông Xuân muộn vào thời gian cao điểm diễn ra xâm nhập mặn nên nguy cơ rủi ro cao; 0,65ha cây ăn trái bị ảnh hưởng (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng, 2024). Ở Hậu Giang, mùa khô năm 2023-2024, thời tiết cực đoan, nắng nóng kéo dài, nguồn nước trên các sông, kênh, rạch khô cạn, nước mặn từ biển xâm nhập một số khu vực trên địa bàn Tỉnh, độ mặn đo được tại một số khu vực có thời điểm lên đến 13,5%, vùng chịu ảnh hưởng của hạn, mặn lên đến 110.000 ha (Sông Hậu, 2024).

Tình hình trên cho thấy BĐKH ảnh hưởng đến các HTXNN và thành viên HTXNN trên các bình diện sau:

Một là, thiệt hại sản xuất và giảm thu nhập. Lũ lụt, hạn hán, bão, xâm nhập mặn, sạt lở và nhiệt độ tăng gây mất mùa, giảm năng suất cây trồng (đặc biệt là lúa và rau màu) và vật nuôi, phá hủy cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. BĐKH làm tăng nhiệt độ và độ ẩm, tạo điều kiện cho dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và thủy sản bùng phát, xuất hiện các chủng mới kháng thuốc, làm tăng chi phí phòng trị và giảm chất lượng sản phẩm. Thoái hóa đất, khan hiếm nước ngọt và ô nhiễm nguồn nước làm giảm khả năng sản xuất, tăng chi phí đầu vào và hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của HTX.

Hai là, chi phí sản xuất tăng cao. Nông dân thường sử dụng quá mức phân bón, hóa chất để tự bảo hiểm năng suất trước sự phát triển của sâu bệnh hoặc do thiếu kiến thức về hiệu quả sử dụng, làm tăng chi phí đầu vào; trong khi các công nghệ xanh/carbon thấp có thể chưa mang lại lợi ích kinh tế trong ngắn hạn.

Ba là, hệ thống thủy lợi hiện tại được xây dựng chủ yếu cho độc canh lúa, thiếu khả năng điều tiết linh hoạt, bảo dưỡng kém và không đáp ứng được nhu cầu đa dạng hóa cây trồng hoặc nhiều mục đích sử dụng nước khác, cản trở nông dân chuyển đổi cơ cấu sản xuất thích ứng với BĐKH.

PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH SẢN XUẤT THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA THÀNH VIÊN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TP. CẦN THƠ HIỆN NAY

Trước khi thực hiện sắp xếp 3 tỉnh, thành phố là Cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng, chính quyền các địa phương đã có bước chuẩn bị và triển khai nhiều mô hình phát triển sản xuất nông nghiệp ở các HTX theo hướng tăng trưởng xanh và thích ứng với BĐKH. Có nhiều mô hình đang được triển khai và hoạt động hiệu quả như:

Nhằm hướng người dân sản xuất ra các sản phẩm an toàn, chất lượng, hạn chế tình trạng lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, đồng thời hướng đến sản xuất nông nghiệp thích ứng với BĐKH, ngày 6/12/2021, UBND TP. Cần Thơ đã ban hành Quyết định số 3719/QĐ-UBND phê duyệt kế hoạch tổng thể và dự toán năm 2021 của Dự án “Các trung tâm đổi mới sáng tạo xanh” TP. Cần Thơ, trong đó nguồn vốn đối ứng của Thành phố tham gia thực hiện dự án là hơn 3,8 tỷ đồng. Trong 3 năm 2021-2023, Thành phố đã cùng với Dự án triển khai 9 mô hình sản xuất lúa theo tiêu chuẩn SRP giảm khí phát thải CO2 (vào 3 vụ Đông Xuân năm 2022-2023, 2 vụ Hè Thu năm 2022 và 4 vụ Thu Đông 2023), tổ chức hội thảo, hội thảo đầu bờ đánh giá mô hình, tổ chức lớp tập huấn, củng cố HTXNN và hướng dẫn HTX trong kết nối thị trường…; chọn 10 HTX lúa gạo trên địa bàn 3 huyện Thới Lai, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ tham gia Dự án. Năm 2024, một số HTXNN tích cực tham gia Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”. Các HTXNN trên địa bàn đang chuyển dần sang sản xuất nông sản xanh, sạch như: HTXNN ứng dụng công nghệ cao Giọt Phù Sa (huyện Phong Điền) được Văn phòng điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới TP. Cần Thơ hỗ trợ kinh phí Giấy chứng nhận Organic sản phẩm Đông trùng hạ thảo theo Đề án nông nghiệp hữu cơ quốc gia của Bộ Khoa học và Công nghệ với kinh phí 200 triệu đồng.

Ở Hậu Giang, nhiều nghị quyết nhằm triển khai thực hiện các mô hình sản xuất thích ứng với BĐKH được thông qua, đặc biệt là Nghị quyết số 26/2020/NQ-HĐND ngày 4/12/2020 của HĐND tỉnh Hậu Giang thông qua Đề án phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với BĐKH tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Kết quả 4 năm thực hiện Đề án đối với 15 HTX và 3 liên hiệp HTX tham gia như trong Bảng.

Bảng: Tiến độ về áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất ở tỉnh Hậu Giang (cũ)

STT

Tên HTX

Kết quả đạt được

1

HTX Cao Cường

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất, 15,6% diện tích được chứng nhận VietGAP.

2

HTX Thuận Lợi

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa, 29,9% diện tích được chứng nhận VietGAP, 70% diện tích có mã số vùng trồng.

3

HTX Phúc Thịnh

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa tưới và phun phân, 100% diện tích được chứng nhận VietGAP.

4

HTX nuôi lươn Thuận Phát

100% thành viên sản xuất theo quy trình VietGAP, 36,2% diện tích được chứng nhận VietGAP.

5

HTX NN Thành Đạt

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa, 84,2% diện tích được chứng nhận VietGAP.

6

HTX Hưng Thịnh

50% diện tích dưa lưới trồng trong nhà màng, 15% diện tích dưa lưới được chứng nhận VietGAP.

7

HTX NN và DV Kiến Thành

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa, 97,5% diện tích được chứng nhận VietGAP, 90% diện tích được bao tiêu.

8

HTX Kim Ngoan

100% thành viên nuôi cá thát lát theo quy trình an toàn thực phẩm.

9

HTX Kỳ Như

100% thành viên nuôi cá thát lát theo quy trình an toàn thực phẩm.

10

HTX Mãng cầu xiêm Hòa Mỹ

40,1% diện tích áp dụng tưới tiết kiệm, 85% diện tích sản xuất theo GlobalGAP.

11

HTX NN Trung Hiếu Phát

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa, 69,7% diện tích được chứng nhận VietGAP.

12

HTX NN Sơn Phú

50,7% thành viên áp dụng tưới tiết kiệm, diện tích áp dụng công nghệ còn hạn chế.

13

HTX NN Hiếu Lực

100% thành viên áp dụng cơ giới hóa, 43,1% diện tích được chứng nhận VietGAP.

14

HTX Trái cây sinh học OCOP

Hệ thống tưới tiết kiệm nước tăng hàng năm, diện tích chứng nhận. GlobalGAP tăng 10% mỗi năm.

15

HTX Hậu Giang xanh

100% thành viên hợp tác xã nuôi cá thát lát theo quy trình an toàn thực phẩm

Nguồn: Báo cáo đánh giá giữa kỳ Đề án phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng với BĐKH tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021-2025

Đã có 7/7 HTX lúa đã áp dụng 100% cơ giới hoá trong làm đất, bơm tưới, thu hoạch, phun thuốc bằng drone; 70% gieo sạ, bón phân bằng máy; 7/7 HTX có giấy chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn GAP với tổng diện tích 496 ha. Có 4/4 HTX trái cây áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm hoặc tưới bằng máy chiếm 90%; 3/4 HTX có giấy chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn GAP với tổng diện tích 150,26 ha, trong đó chứng nhận VietGAP có 2 HTX và chứng nhận GlobalGAP có 2 HTX. Có 3/4 HTX chăn nuôi sản xuất theo quy trình an toàn và 1 HTX có giấy chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP với diện tích 1.085m2.

Đối với tỉnh Sóc Trăng (cũ), Đề án “Phát triển bền vững một triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” được thực hiện tại 9 huyện thị, thành phố. Mô hình triển khai thí điểm ở 50 ha “Canh tác lúa giảm phát thải, quản lý rơm, nước và phân bón” tại HTXNN Hưng Lợi; đã tổ chức sơ kết mô hình với hiệu quả sản xuất của mô hình tăng 32,3% so với ngoài mô hình do chi phí sản xuất thấp hơn (20,1%) và lợi nhuận cao hơn (12,2%). Mô hình này đã giúp giảm được 29,6% lượng khí phát thải so với ngoài mô hình và đã được Cục Trồng trọt cấp giấy chứng nhận vùng sản xuất áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL. Tiếp tục vụ Đông Xuân 2024-2025 triển khai 8 mô hình/340 ha (mỗi mô hình 50 ha) sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp tại 8 địa phương trong Tỉnh từ các nguồn vốn khác nhau. Năm 2024, Dự án Phát triển sản xuất lúa đặc sản tiếp tục duy trì và phát triển vùng sản xuất lúa đặc sản với tổng diện tích mở mới 2.450 ha, triển khai xây dựng 18/18 điểm mô hình canh tác lúa đặc sản thích ứng biến đổi khí hậu gắn với liên kết tiêu thụ (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2024).

Một trong những tác động lớn và kỳ vọng của các mô hình đã được triển khai là việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp thông qua áp dụng các mô hình sản xuất tiên tiến (hữu cơ, GlobalGAP, VietGAP, an toàn và các phương pháp canh tác mới). Nhờ vào nâng cao năng lực của thành viên các HTX điểm thông qua tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật, các thành viên nâng cao kỹ năng quản lý sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và phát triển chuỗi giá trị. Cụ thể, các mô hình sản xuất lúa chất lượng cao đã giúp giảm lượng giống và phân bón, cân đối việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, từ đó không chỉ giảm chi phí sản xuất mà còn tăng cường tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp. Đối với mô hình HTX chăn nuôi, việc tăng mật độ nuôi kết hợp với cải thiện kỹ thuật đã giúp giảm tỷ lệ bệnh tật và tăng sản lượng, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Tác động đáng chú ý khác của các mô hình là việc hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với BĐKH. Việc sử dụng giao thông nông thôn, hệ thống thủy lợi nội đồng và các trang thiết bị hỗ trợ sản xuất và các mô hình canh tác thích ứng đã giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên nước và đảm bảo hiệu quả sản xuất và kinh doanh nông nghiệp.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Mặc dù BĐKH mang đến nhiều thách thức, nhưng cũng thúc đẩy việc áp dụng các giải pháp và chiến lược mới nhằm nâng cao lợi ích và khả năng chống chịu cho các thành viên HTXNN. Vì vậy, nhằm tiếp tục thích ứng với BĐKH, đảm bảo lợi ích kinh tế của thành viên HTXNN ở TP. Cần Thơ, theo tác giả, cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, nâng cao năng suất và thu nhập cho thành viên HTXNN. Dưới tác động của BĐKH, cần thúc đẩy việc chuyển đổi đất lúa sang các sản phẩm nông nghiệp khác có giá trị cao hơn hoặc dịch vụ sinh thái, đặc biệt là ở các vùng bị nhiễm mặn. Việc này giúp tăng thu nhập và đa dạng hóa thu nhập cho nông dân. Các mô hình như lúa - tôm, lúa - cá thích ứng tốt với lũ lụt và nhiễm mặn, tăng lợi nhuận, tối ưu hóa sử dụng đất và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng cần được nhân rộng.

Việc sử dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước (ví dụ: tưới nhỏ giọt) có thể tăng năng suất từ 10%-40%, giảm chi phí chăm sóc và tăng thu nhập hộ gia đình từ 20%-50%, đồng thời tiết kiệm nước 20-40%. Đầu tư nghiên cứu và phổ biến các giống có khả năng thích ứng cao với điều kiện khắc nghiệt như nhiệt độ tăng, mặn, lũ lụt, hạn hán sẽ giúp ổn định sản xuất và giảm rủi ro thiệt hại. Bên cạnh đó, việc luân canh, đa dạng hóa cây trồng và quản lý dinh dưỡng giúp cải thiện hiệu quả canh tác, tăng độ phì nhiêu của đất, và giảm phát thải khí nhà kính.

Thứ hai, tăng cường khả năng chống chịu và thích ứng của thành viên HTXNN trước tác động của BĐKH. Chính phủ và các HTX có thể tập trung vào các giải pháp cải thiện hệ thống thông tin dự báo thời tiết và khí hậu, hỗ trợ tiếp cận vốn, các chương trình bảo hiểm cây trồng, vật nuôi và đầu tư vào cơ sở hạ tầng thủy lợi. Hỗ trợ nông dân nghèo đa dạng hóa sản xuất sang các loại nông sản giá trị cao, tham gia các công việc phi nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro từ BĐKH. Đẩy mạnh áp dụng các giải pháp kinh tế tuần hoàn, xây dựng thương hiệu, phát triển sản phẩm OCOP, kết hợp phát triển du lịch nông nghiệp và nông thôn nhằm đa dạng hóa thu nhập cho thành viên HTX.

Thứ ba, phát huy vai trò của Nhà nước về tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo, phát triển chuỗi giá trị và thương hiệu của HTXNN. Nhà nước có vai trò quan trọng trong hỗ trợ xây dựng các hệ thống đổi mới sáng tạo nông nghiệp, thúc đẩy kết nối, trao đổi thông tin và chấp nhận rủi ro giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân. Cần xây dựng thêm diễn đàn chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, khoa học công nghệ giữa HTX, doanh nghiệp, nhà khoa học, chính quyền, nhằm kết nối "5 nhà" (nông dân, Nhà nước, doanh nghiệp, khoa học và tài chính) trong phát triển bền vững HTXNN, như: tiếp cận thông tin kỹ thuật, thị trường, dự báo thời tiết, quản lý dịch hại và giá cả, giúp đưa ra quyết định sản xuất hiệu quả hơn.

Tăng cường các chính sách hỗ trợ xây dựng hợp đồng liên kết tiêu thụ nông sản, góp phần giúp thành viên HTXNN tiếp cận thị trường, xây dựng thương hiệu và mang lại giá trị gia tăng cao hơn cho nông sản của thành viên. Bởi, tham gia mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ qua các hình thức hợp đồng giúp HTXNN và thành viên giảm chi phí giao dịch, đảm bảo tính bền vững, đồng thời cung cấp khả năng tiếp cận thị trường và thu nhập ổn định cho các thành viên HTX.

Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tín dụng, bảo hiểm rủi ro thiên tai và đầu tư hạ tầng để giảm thiểu tác động của BĐKH cho sản xuất và sinh kế cũng cần được tăng cường.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2020). Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 05/8/2020 về xây dựng và phát triển TP. Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Hà My (2024). Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam, https://kinhtemoitruong.vn/tac-dong-cua-bien-doi-khi-hau-doi-voi-san-xuat-nong-nghiep-viet-nam-87633.html

3. Liên minh Hợp tác xã TP. Cần Thơ (2024). Báo cáo tình hình kinh tế tập thể, HTX và hoạt động của Liên minh HTX TP. Cần Thơ năm 2024, nhiệm vụ công tác trọng tâm năm 2025.

4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hậu Giang (2025). Báo cáo Tổng kết thực hiện Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2024 và triển khai kế hoạch năm 2025.

5. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng (2024). Báo cáo kết quả sản xuất nông nghiệp năm 2024 Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2025.

6. Sông Hậu (2024). Hậu Giang chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu - Đề cao vai trò của chính quyền, người dân, https://nongnghiepmoitruong.vn/hau-giang-chu-dong-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau-de-cao-vai-tro-cua-chinh-quyen-nguoi-dan-d729178.html

7. Trần Đại Nghĩa (2018). Tài liệu hướng dẫn về nông nghiệp thông minh với biến đổi khí hậu, Nxb. Nông nghiệp.

8. Võ Hồng Tú và cộng sự (2024). Báo cáo đánh giá giữa kỳ Đề án phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng với BĐKH tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021-2025.

Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/9/2025; Ngày duyệt đăng: 29/9/2025