Uông Thị Ngọc Lan

Trường Đại học Thành Đông

Email: lanutn@thanhdong.edu.vn

ThS. Nguyễn Thị Hương

Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh

Tóm tắt

Nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định tái sử dụng bao gói nhanh của người dân tại TP. Hà Nội thông qua phương pháp phân tích định lượng trên phần mềm SPSS26. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Cảm xúc, Nhận thức về hậu quả, Nhận thức về kiếm soát hành vi, Nhận thức về sức khoẻ, Chuẩn mực chủ quan, Thái độ bản thân, Nhận thức về môi trường là các yếu tố có tác động trực tiếp đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị nhằm thúc đẩy thói quen tái sử dụng của người dân, giảm thiểu ô nhiễm nhựa và hướng đến phát triển bền vững.

Từ khóa: Ý định, tái sử dụng bao gói nhanh, TP. Hà Nội

Summary

The study aims to identify the factors influencing residents’ intentions to reuse disposable food packaging in Ha Noi City, using a quantitative analysis method with SPSS 26 software. The research findings reveal that emotions, perceived consequences, perceived behavioral control, health awareness, subjective norms, personal attitude, and environmental awareness directly affect the intention to reuse disposable food packaging. Based on these findings, the study proposes several managerial implications to encourage reuse behavior among residents, reduce plastic pollution, and promote sustainable development.

Keywords: Intention, disposable food packaging reuse, Ha Noi City

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, ô nhiễm môi trường do rác thải nhựa được xem là vấn đề nghiêm trọng trên toàn cầu. Việc sử dụng bao bì dùng một lần trong ngành thực phẩm, đặc biệt là bao gói nhanh (fast packaging) như: túi nylon, hộp xốp, ly nhựa…, đã và đang tạo ra lượng lớn rác thải khó phân huỷ. Theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), mỗi năm thế giới thải ra hơn 300 triệu tấn nhựa, trong đó bao bì nhựa chiếm khoảng 50%, phần lớn chỉ được sử dụng một lần rồi bị loại bỏ. Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia xả thải nhựa ra đại dương nhiều nhất thế giới. Riêng tại Hà Nội, lượng rác thải nhựa sinh hoạt ngày càng tăng, trong đó bao gói nhanh chiếm tỷ trọng lớn, gây áp lực không nhỏ lên hệ thống xử lý chất thải đô thị và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng và hệ sinh thái tự nhiên.

Trước thực trạng này, tái sử dụng bao gói nhanh được xem là một trong những giải pháp thiết thực nhằm giảm thiểu chất thải rắn, tiết kiệm tài nguyên và hướng tới tiêu dùng bền vững. Tuy nhiên, việc người dân có sẵn sàng tái sử dụng bao gói nhanh hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ nhận thức môi trường, thái độ cá nhân, chuẩn mực xã hội cho đến sự thuận tiện trong hành vi tiêu dùng hàng ngày. Mặc dù các chiến dịch truyền thông về bảo vệ môi trường, giảm rác thải nhựa đã tích cực được triển khai tại Hà Nội, nhưng hành vi tái sử dụng bao gói nhanh vẫn chưa phổ biến rộng rãi. Điều này đặt ra vấn đề cấp thiết đối với người dân đô thị, nơi có nhịp sống nhanh và thói quen tiêu dùng tiện lợi đã ăn sâu vào tiềm thức sinh hoạt. Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến ý định tái sử dụng bao gói nhanh của người dân tại TP. Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực là cần thiết, mang ý nghĩa thực tiễn.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Tái sử dụng được hiểu là quá trình sử dụng lại một sản phẩm đã qua một vòng đời sử dụng đầu tiên cho cùng hoặc cho mục đích khác, không cần thay đổi cấu trúc vật lý hoặc tái chế sản phẩm. Theo Smith (2023), tái sử dụng là việc kéo dài tuổi thọ của sản phẩm bằng cách tiếp tục sử dụng nó cho một mục đích mới, qua đó tiết kiệm năng lượng, tài nguyên và giảm thiểu chất thải mà không gây hại cho môi trường. Hiểu một cách đơn giản, tái sử dụng là quá trình gia hạn vòng đời của sản phẩm bằng cách khai thác tối đa giá trị sử dụng vốn có, từ đó làm giảm nhu cầu tiêu thụ mới và lượng chất thải phát sinh.

Bao gói nhanh là loại bao bì được thiết kế để phục vụ các nhu cầu tiêu dùng tức thời, mang tính tiện lợi, thường sử dụng trong thời gian ngắn và bị loại bỏ sau khi sử dụng một lần, phổ biến nhất trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống mang đi. Tuy nhiên, trong bối cảnh ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng do rác thải bao bì dùng một lần, khái niệm “bao gói nhanh có thể tái sử dụng” được đưa ra như một giải pháp thay thế bền vững. Liu và cộng sự (2018) cho rằng, bao gói nhanh có thể tái sử dụng là loại bao bì được thiết kế từ chất liệu bền vững và thân thiện với môi trường, cho phép sử dụng nhiều lần mà không ảnh hưởng đến chức năng bảo vệ sản phẩm hay tính thẩm mỹ. Khi được sử dụng lặp lại, chi phí trên mỗi lần sử dụng sẽ giảm dần theo số vòng đời, qua đó mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên nền tảng lý thuyết hành động hợp lý (TRA) của Ajzen và Fishbein (1977) và lý thuyết hành vi có dự định (TPB) được phát triển trên nền tảng lý thuyết TRA bởi Ajzen (1991) cùng với quá trình quan sát thực tế và tổng quan một số nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước của Wang và cộng sự (2021), Zhan và cộng sự (2023), Phạm Thị Nguyệt và cộng sự (2024), tác giả lựa chọn các yếu tố chính tác động đến ý định tái sử dụng bao gói nhanh tại TP. Hà Nội như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Nguồn: Tác giả đề xuất

Từ mô hình nghiên cứu đề xuất, các giả thuyết được đưa ra như sau:

H1: Nhận thức về hậu quả có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

H2: Cảm xúc có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

H3: Nhận thức về kiểm soát hành vi có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

H4: Thái độ bản thân có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

H5: Chuẩn mực chủ quan có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

H6: Nhận thức về môi trường có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

H7: Nhận thức về sức khoẻ có tác động tích cực đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

Mô hình nghiên cứu được viết dưới dạng phương trình như sau:

Trong đó:

YD (yếu tố phụ thuộc): Ý định tái sử dụng bao gói nhanh.

Các yếu tố độc lập bao gồm: Nhận thức về hậu quả (HQ), Cảm xúc (CX), Nhận thức kiểm soát hành vi (KS), Thái độ bản thân (TD), Chuẩn mực chủ quan (CQ), Nhận thức về môi trường (MT), Nhận thức về sức khoẻ (SK).

βk: Hệ số hồi quy (k = 0, 1, 2...,7).

Phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua bảng câu hỏi khảo sát đối với người dân sinh sống trên địa bàn TP. Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức độ, từ 1- Rất không đồng ý đến 5- Rất đồng ý. Thang đo nghiên cứu gồm 35 biến quan sát tương ứng với 7 yếu tố độc lập và 1 yếu tố phụ thuộc. Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo tỷ lệ tối thiểu cần thiết trong phân tích nhân tố khám phá (EFA) được đề xuất bởi Hair và cộng sự (2010) là 5:1, với phương pháp khảo sát phi xác suất thuận tiện trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3/2025. Kết quả thu về được 183 phiếu khảo sát hợp lệ. Dữ liệu sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 26, qua các bước kiểm định độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s Alpha, phân tích EFA và phân tích hồi quy đa biến để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 1: Kết quả phân tích hệ số Cronbach’s Alpha và hệ số tải nhân tố

Các

yếu tố

Số biến quan sát

Hệ số Croanbach’s Alpha

Hệ số tương quan biến tổng nhỏ nhất

Hệ số tải nhân tố

nhỏ nhất

Hệ số Eigenvalue

Nguồn

HQ

4

0,778

0,582

0,794

5,105

Wang và cộng sự (2021), Zhan và cộng sự (2023), Phạm Thị Nguyệt và cộng sự (2024)

CX

5

0,843

0,531

0,775

4,897

KS

4

0,814

0,498

0,756

4,038

TD

5

0,796

0,503

0,769

3,786

CQ

4

0,828

0,512

0,737

3,213

MT

4

0,809

0,556

0,785

2,684

SK

5

0,787

0,567

0,768

1,485

Kiểm định Bartlett

Giá trị chi bình phương

5621,236

df

214

Sig.

0,000

Hệ số KMO = 0,798; Tổng phương sai trích: 78,764%

YD

4

0,827

0,532

0,809

2,469

Phạm Thị Nguyệt và cộng sự (2024)

Kiểm định Bartlett

Giá trị chi bình phương

327,437

df

4

Sig.

0,000

Hệ số KMO = 0,775; Tổng phương sai trích: 78,436%

Nguồn: Phân tích của tác giả

Kết quả phân tích (Bảng 1) cho thấy các yếu tố độc lập và yếu tố phụ thuộc đều có hệ số Cronbach’s Alpha > 0,7 và hệ số tương quan biến tổng > 0,4, khẳng định độ tin cậy của thang đo. Ngoài ra, phân tích EFA cho thấy thang đo có chất lượng tốt với hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều > 0,7 và không có biến quan sát xấu. Hệ số KMO = 0,798 với giá trị Sig. của kiểm định Bartlett = 0,000 cho thấy dữ liệu đưa vào phân tích là phù hợp và có ý nghĩa thống kê. Tại mức Eigenvalue nhỏ nhất của các yếu tố độc lập > 1, các biến quan sát được sắp xếp vào 7 nhóm yếu tố như dự đoán ban đầu với tổng phương sai trích đạt 78,764%, nghĩa là các yếu tố độc lập trong mô hình nghiên cứu giải thích được 78,764% sự biến thiên dữ liệu từ các biến quan sát thu thập (Hair và cộng sự, 2010). Đối với yếu tố phụ thuộc, các hệ số Cronbach’s Alpha, hệ số tải nhân tố, hệ số KMO đều đạt yêu cầu < 1 và > 0,5 theo khuyến nghị của Hair và cộng sự (2010) đưa ra; đồng thời, tại Eigenvalue > 1, chỉ có duy nhất 1 nhóm yếu tố được trích với tổng phương sai trích khi thực hiện phân tích thoả mãn > 50% (Hair và cộng sự, 2010).

Bên cạnh đó, kết quả phân tích tương quan Pearson cho thấy, có mối tương quan tốt giữa các yếu tố độc lập và ý định tái sử dụng bao gói nhanh khi hệ số tương quan đều > 0,4 và giá trị Sig. < 0,05. Giữa các yếu tố độc lập không thấy xuất hiện sự đa cộng tuyến, vì vậy, dữ liệu hoàn toàn phù hợp để tiếp tục đưa vào phân tích hồi quy (Bảng 2).

Bảng 2: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính

Mô hình

Hệ số hồi quy

chưa chuẩn hóa

Hệ số hồi quy

chuẩn hóa

t

Sig.

Thống kê

đa cộng tuyến

Beta

Độ lệch chuẩn

Beta chuẩn hoá

Dung sai điều chỉnh

VIF

1

Hằng số

2,135

0,034

5,682

0,000

HQ

0,356

0,031

0,378

5,064

0,003

0,534

1,632

CX

0,382

0,017

0,395

4,973

0,002

0,565

1,564

KS

0,334

0,015

0,366

3,897

0,000

0,643

1,761

TD

0,258

0,026

0,263

4,656

0,001

0,589

1,743

CQ

0,272

0,030

0,294

5,425

0,000

0,653

1,598

MT

0,228

0,018

0,247

4,759

0,002

0,576

1,657

SK

0,317

0,024

0,348

5,501

0,000

0,667

1,685

Giá trị F = 124,657; Sig. = 0,000

R2 = 0,811; R2 hiệu chỉnh = 0,786; Durbin-Watson = 1,843

a. Biến phụ thuộc: YD

Nguồn: Phân tích của tác giả

Kết quả Bảng 2 với hệ số R2 hiệu chỉnh = 0,786 cho thấy mức độ phù hợp của mô hình là tương đối tốt và các yếu tố độc lập giải thích được 78,6% sự biến thiên của yếu tố phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu, còn lại là do các yếu tố khác ngoài mô hình hoặc sai số trong quá trình phân tích. Kiểm định F và kiểm định t đều có giá trị Sig. = 0,000 cho thấy mô hình hồi quy là phù hợp và các yếu tố độc lập ảnh hưởng lên yếu tố phụ thuộc đều có ý nghĩa thống kê. Hệ số Durbin-Watson = 1,843 không vi phạm giả định tự tương quan chuỗi bậc nhất; hệ số VIF > 1 và < 2 chứng tỏ thang đo các yếu tố không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến và giá trị Sig. của kiểm định t đều thoả mãn < 0,05. Như vậy, các giả thuyết đưa ra đều được chấp nhận, các yếu tố độc lập có ảnh hưởng chiều dương đến yếu tố phụ thuộc.

Phương trình nghiên cứu theo hệ số Beta chuẩn hóa được viết như sau:

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 7 yếu tố tác động đến Ý định tái sử dụng bao gói nhanh xếp theo thứ tự giảm dần, bao gồm: Cảm xúc, Nhận thức về hậu quả, Nhận thức về kiếm soát hành vi, Nhận thức về sức khỏe, Chuẩn mực chủ quan, Thái độ bản thân, Nhận thức về môi trường.

Hàm ý quản trị

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị như sau:

Một là, các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội và doanh nghiệp nên triển khai các chiến dịch truyền thông môi trường theo hướng tập trung vào cảm xúc, sử dụng hình ảnh thị giác mạnh về hậu quả của rác thải nhựa, kết hợp với câu chuyện truyền cảm hứng từ những cá nhân tiêu biểu có thói quen tái sử dụng bao gói nhanh giúp lan tỏa cảm xúc tích cực và thúc đẩy hành vi. Đẩy mạnh giáo dục cộng đồng về tác động tiêu cực lâu dài của bao gói nhanh dùng một lần đối với môi trường, sức khỏe và chi phí xã hội thông qua các buổi tọa đàm, workshop, infographic truyền thông nêu bật sự khác biệt giữa hành vi tiêu dùng thông thường và hành vi tái sử dụng.

Hai là, chính quyền địa phương cần phát triển hạ tầng hỗ trợ hành vi tái sử dụng, như: điểm thu gom - đổi trả bao bì, hệ thống hoàn tiền với bao gói tái sử dụng, hoặc liên kết với các đơn vị giao hàng để triển khai chuỗi logistics xanh. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể thiết kế các bao gói nhanh có thể gấp gọn, dễ vệ sinh, bền và tiện lợi để người dân dễ dàng tái sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, tạo lập các phong trào “thử thách xanh” tại các trường đại học, chung cư, văn phòng nhằm tạo hiệu ứng số đông. Bên cạnh truyền thông, việc tạo điều kiện cho người dân tham gia các hoạt động thực tế như: thu dọn rác, tái chế cộng đồng, thiết kế bao bì sinh thái..., sẽ giúp nâng cao nhận thức môi trường từ trải nghiệm, thúc đẩy sự chuyển đổi từ nhận thức sang hành động.

Tài liệu tham khảo:

1. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50, 179-211.

2. Ajzen, I., and Fishbein, M. (1977). Attitude-behavior relations: A theoretical analysis and review of empirical research, Psychological Bulletin, 84, 888-918.

3. Hair, J., Anderson, R., Tatham, P., and Black, W. (2006). Multivariate Data Analysis, 6th ed., Prentice- Hall, Upper Saddle River, N.J.

4. Liu, A., Ji, X., Tsai, S.-B., Lu, H., Du, G., Li, F., Li, G., and Wang, J. (2018). An empirical study on the innovation sharing express box: Collaborative consumption and the overlay network design, Sustainability, 10(7), 1-19.

5. Phạm Thị Nguyệt, Phạm Thị Cao Trang, Nguyễn Tuyết Nhi và Nguyễn Lưu Thanh Tân. (2024). Ý định tái sử dụng bao gói nhanh trong ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) của sinh viên Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học HUTECH, 1051-1056.

6. Smith (2023). Reuse vs recycle: Differences and comparisons, https://askanydifference.com/vi/difference-between-reuse-and-recycle/.

7. Wang, Q., Zhang, W., Tseng, C. P., Sun, Y., and Zhang, Y. (2021). Intention in use recyclable express packaging in consumers’ behavior: An empirical study, Resources Conservation and Recycling, 164(4), 105115.

8. Zhan, Y., Sun, Y., and Xu, J. (2023). A study on the recycling classification behavior of express packaging based on UTAUT under “dual carbon” targets, Sustainability, 15(15), 1-22.

Ngày nhận bài: 17/7/2025: Ngày hoàn thiện biên tập: 23/7/2025; Ngày duyệt đăng: 25/7/2025