TS. Phạm Thanh Tuấn

Email: phamthanhtuan.cs2@ftu.edu.vn

Th.S. Lê Thị Hồng Diệp

Email: lethihongdiep.cs2@ftu.edu.vn

TS. Trần Xuân Lộc

Email: tranxuanloc.cs2@ftu.edu.vn

Trường Đại học Ngoại thương - Cơ sở II tại TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Nghiên cứu tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chọn học tiếp hay đi làm của sinh viên mới tốt nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh. Dữ liệu khảo sát gồm 323 quan sát theo thang Likert 5 mức độ, được phân tích trên phần mềm thống kê SPSS. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 3 yếu tố: Khả năng có việc làm cảm nhận, Lợi ích kỳ vọng của học tiếp và Thái độ đối với học tiếp, có tác động tích cực đến Ý định học tiếp; Kiểm soát hành vi nhận thức chỉ có ảnh hưởng dương ở mức biên; còn Chuẩn mực gia đình không có ý nghĩa khi xét đồng thời các yếu tố khác. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý quản trị nhằm minh bạch hóa lợi ích học tập theo từng ngành, phát triển mô hình vừa học vừa làm một cách linh hoạt, đồng thời tăng cường các hình thức hỗ trợ về học thuật và tài chính nhằm nâng cao cảm nhận kiểm soát của người học.

Từ khóa: Các yếu tố ảnh hưởng, học tiếp hay đi làm, sinh viên, TP. Hồ Chí Minh

Summary

This study analyzes the factors influencing newly graduated students’ intentions to either pursue further education or enter the workforce in Ho Chi Minh City. Survey data comprising 323 observations, measured on a five-point Likert scale, were analyzed using SPSS statistical software. The findings indicate that three factors, including Perceived employability, Expected benefits of further study, and Attitude toward further study, positively affect the intention to continue studying. Perceived behavioral control shows only a marginal positive effect, while Family norms are not significant when other factors are considered simultaneously. Based on these results, the study proposes several managerial implications, including clarifying the benefits of further education by field of study, developing flexible work-study models, and enhancing academic and financial support mechanisms to strengthen learners’ perceived control.

Keywords: Influencing factors, further study or employment, students, Ho Chi Minh City

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh thị trường lao động thay đổi nhanh chóng dưới tác động của chuyển đổi số và những ảnh hưởng của đại dịch COVID -19 đến các hoạt động kinh tế, quyết định học tiếp hay gia nhập thị trường lao động ngay sau khi tốt nghiệp trở thành một lựa chọn khó đối với sinh viên tại TP. Hồ Chí Minh. Kỳ vọng về kỹ năng mới, chi phí cơ hội của việc trì hoãn đi làm, cùng áp lực tài chính và văn hóa gia đình khiến quá trình ra quyết định chịu những ảnh hưởng đa chiều. Đối với các cơ sở giáo dục đại học, việc hiểu rõ động lực và rào cản của ý định học tiếp không chỉ giúp thiết kế chương trình phù hợp với nhu cầu kỹ năng mới xuất hiện mà còn hỗ trợ hoạch định dịch vụ hướng nghiệp và chính sách học bổng hiệu quả hơn.

Nghiên cứu quốc tế thường lý giải ý định hành vi thông qua các cấu phần như thái độ, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức. Tuy nhiên, trong bối cảnh ra quyết định sau tốt nghiệp, các yếu tố gắn với lợi ích kỳ vọng của giáo dục bổ sung và triển vọng có việc làm cũng đóng vai trò quan trọng. Một số bằng chứng gần đây gợi ý rằng cảm nhận về khả năng có việc làm có thể vừa là động lực thúc đẩy đầu tư học tiếp để tăng tốc thăng tiến, vừa làm giảm nhu cầu học tiếp khi chi phí cơ hội đi làm cao. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về ý định học tiếp còn phân tán, hiếm khi đo lường đồng thời lợi ích kỳ vọng của học tiếp và cảm nhận khả năng có việc làm trong cùng một mô hình gọn nhẹ, có khả năng triển khai thực tế ở cấp nhà trường.

Từ khoảng trống đó, nghiên cứu này tập trung lượng hóa tác động của 5 yếu tố đo bằng thang đo Likert 5 mức độ gồm: Thái độ đối với học tiếp, Chuẩn mực gia đình, Kiểm soát hành vi nhận thức, Khả năng có việc làm cảm nhận và Lợi ích kỳ vọng của học tiếp đến Ý định chọn học tiếp hay đi làm của sinh viên mới tốt nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Nghiên cứu được xây dựng dựa trên cơ sở Lý thuyết Hành vi dự định, trong đó ý định thực hiện hành vi được xác định là hàm của 3 yếu tố: thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi (Ajzen, 1991). Khi áp dụng vào bối cảnh quyết định học tiếp hay đi làm của sinh viên sau tốt nghiệp, thái độ phản ánh về lợi ích và chi phí của việc học tiếp; chuẩn mực chủ quan thể hiện kỳ vọng từ gia đình như một yếu tố tham chiếu có ảnh hưởng mạnh mẽ trong văn hóa Á Đông. Trong khi đó, kiểm soát hành vi nhận thức phản ánh cảm nhận của cá nhân về các nguồn lực: thời gian, tài chính và năng lực học thuật cần thiết để tiếp tục theo học.

Để phân tích động lực kinh tế - nghề nghiệp của sinh viên mới tốt nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, mô hình nghiên cứu tiếp tục tích hợp các cách tiếp cận xã hội và nhận thức nghề nghiệp, nhấn mạnh vai trò của tự hiệu quả và kỳ vọng kết quả trong việc hình thành lựa chọn học tập và nghề nghiệp (Lent và cộng sự, 1994). Đồng thời, mô hình kết hợp với kinh tế học vốn nhân lực và lý thuyết tín hiệu. Theo đó, giáo dục bổ sung làm gia tăng năng suất kỳ vọng, vừa đóng vai trò tín hiệu về năng lực, góp phần giảm thiểu tình trạng bất cân xứng thông tin giữa người lao động và nhà tuyển dụng (Spence, 1973).

Trên cơ sở đó, nghiên cứu lựa chọn 5 yếu tố có khả năng đo lường và mang giá trị thực tiễn, gồm: Thái độ đối với việc học tiếp (ATT), Chuẩn mực gia đình (SNF), Kiểm soát hành vi nhận thức liên quan đến học tiếp (PBC), Khả năng có việc làm cảm nhận (PE) và Lợi ích kỳ vọng từ việc học tiếp (ROI). Theo kỳ vọng lý thuyết, 4 yếu tố đầu tiên có tác động cùng chiều đến Ý định học tiếp (INT), trong đó yếu tố kiểm soát hành vi đóng vai trò điều kiện khả thi để chuyển hóa thái độ thành ý định cụ thể. Riêng khả năng có việc làm cảm nhận có thể làm giảm ý định học tiếp do chi phí cơ hội khi tham gia thị trường lao động; tuy nhiên, trong trường hợp người học lựa chọn chiến lược vừa học vừa làm hoặc coi học tiếp như một công cụ thúc đẩy thăng tiến, thì yếu tố này vẫn có thể đồng biến với ý định học tiếp, đặc biệt trong bối cảnh thị trường lao động đề cao tín hiệu bằng cấp (Yorke, 2006).

Giả thuyết nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước, nhóm tác giả đề xuất 5 giả thuyết nghiên cứu như sau:

H1: Thái độ tích cực đối với học tiếp có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định học tiếp của sinh viên.

H2: Chuẩn mực gia đình có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định học tiếp của sinh viên.

H3: Kiểm soát hành vi nhận thức có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định học tiếp của sinh viên.

H4: Khả năng có việc làm có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định học tiếp của sinh viên.

H5: Cảm nhận học tiếp có ảnh hưởng cùng chiều đến Ý định học tiếp của sinh viên.

Dựa trên các giả thuyết nghiên cứu, mô hình nghiên cứu được đề xuất như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chọn học tiếp của sinh viên mới tốt nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả, 2025

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính và định lượng thông qua việc khảo sát sinh viên mới tốt nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh bằng bảng hỏi Likert 5 mức độ (từ 1 - Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 - Hoàn toàn đồng ý). Mỗi biến được đo bằng 4 chỉ báo thuận chiều, điều chỉnh ngữ cảnh Việt Nam dựa trên hướng dẫn xây dựng thang đo hành vi. Khảo sát được thực hiện trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 5/2025. Dữ liệu được làm sạch và phân tích trên phần mềm thống kê SPSS. Độ tin cậy thang đo được kiểm định bằng hệ số Cronbach’s Alpha với ngưỡng chấp nhận ≥ 0,7 (Nunnally và Bernstein, 1994). Giá trị cấu trúc được đánh giá bằng phân tích nhân tố khám phá (EFA), yêu cầu chỉ số KMO ≥ 0,6, kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê, rút trích thành phần chính và phép quay Varimax; giữ các tải nhân tố ≥ 0,5 (Hair và cộng sự, 2019; Tabachnick và Fidell, 2019). Điểm thang cho từng biến là trung bình các chỉ báo sau khi kiểm định.

Mối quan hệ giữa 5 biến độc lập và biến phụ thuộc (Ý định học tiếp) được ước lượng bằng hồi quy tuyến tính thông thường, phương pháp nhập đồng thời biến. Kiểm tra giả định gồm đa cộng tuyến (Tolerance > 0,2; VIF < 5), tuyến tính và phương sai đồng nhất của phần dư (đồ thị phần dư, giá trị dự báo), tính độc lập phần dư (Hệ số Durbin-Watson ≈ 2) và phân phối chuẩn gần đúng của phần dư (Field, 2013). Ý nghĩa thống kê được xác định ở mức 0,05 cho kiểm định F toàn mô hình và kiểm định t cho hệ số riêng lẻ. Cách tiếp cận này cho phép lượng hóa đóng góp tương đối của từng yếu tố vào Ý định học tiếp, đồng thời bảo đảm khả năng tái lập và triển khai trong quản trị nhà trường.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Kết quả nghiên cứu

Kiểm định độ tin cậy của thang đo

Kết quả phân tích cho thấy, các thang đo đạt độ tin cậy chấp nhận được. Cụ thể: Chuẩn mực gia đình (SNF) với hệ số Cronbach’s Alpha = 0,687; Kiểm soát hành vi nhận thức (PBC) với α = 0,702; Khả năng có việc làm cảm nhận (PE) với α = 0,782; Lợi ích kỳ vọng của học tiếp (ROI) với α = 0,755; Ý định học tiếp (INT) với α = 0,794. Thái độ học tiếp (ATT), với các hệ số tương quan biến - tổng hiệu chỉnh dao động từ 0,563-0,624, “Alpha nếu loại biến” trong khoảng 0,701-0,733, cho thấy thang đo ổn định và nhất quán nội tại. Tổng thể, các thang đo đạt ngưỡng α ≥ 0,7 (SNF tiệm cận ngưỡng) và đủ điều kiện cho phân tích EFA và phân tích hồi quy.

Phân tích EFA

Kết quả phân tích cho thấy, kiểm định KMO = 0,836 và Bartlett có ý nghĩa (p < 0,001), khẳng định dữ liệu thích hợp cho phân tích EFA. Phương pháp trích PCA và phép quay Varimax rút ra 5 yếu tố có eigenvalue > 1, giải thích 58,565% phương sai tích lũy. Các tải nhân tố đều đạt ngưỡng tốt và quy tụ đúng khái niệm: PE (0,698-0,777), ATT (0,672-0,751), ROI (0,589-0,825), SNF (0,612-0,769), PBC (0,554-0,794). Việc các mục quan sát có hệ số tải mạnh và “sạch” trên các yếu tố tương ứng cho thấy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt đạt mức thỏa đáng, qua đó tạo cơ sở tin cậy cho việc thực hiện ước lượng hồi quy ở bước tiếp theo (Hair và cộng sự, 2019).

Phân tích hồi quy

Kết quả phân tích cho thấy, tất cả hệ số ước lượng mang dấu dương; 3 yếu tố có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa mạnh đến Ý định học tiếp (INT) là Khả năng có việc làm cảm nhận - PE (B = 0,211; Beta = 0,261; t = 4,544; Sig. = 0,000), Lợi ích kỳ vọng từ việc học tiếp - ROI (B = 0,205; Beta = 0,180; t = 3,167; Sig. = 0,002) và Thái độ đối với việc học tiếp - ATT (B = 0,099; Beta = 0,122; t = 2,168). Diễn giải theo hệ số chưa chuẩn hóa, khi PE tăng 1 điểm trên thang đo, INT tăng trung bình 0,211 điểm, giữ các yếu tố khác không đổi; tương tự, ROI tăng 1 điểm làm INT tăng 0,205 điểm và ATT tăng 1 điểm làm INT tăng 0,099 điểm. Kiểm soát hành vi nhận thức liên quan đến học tiếp (PBC) có tác động cùng chiều ở mức biên (B = 0,102; Beta = 0,108; t = 1,840), gợi ý vai trò hỗ trợ của cảm nhận thời gian, tài chính và năng lực học thuật nhưng độ chắc chắn thống kê chưa cao. Chuẩn mực gia đình (SNF) có hệ số nhỏ (B = 0,032) và giá trị t = 0,590, cho thấy ảnh hưởng trực tiếp không đáng kể khi đã xét đồng thời các yếu tố còn lại. Thứ bậc sức ảnh hưởng theo hệ số chuẩn hóa là PE > ROI > ATT > PBC > SNF. Về chẩn đoán kỹ thuật, mô hình không có đa cộng tuyến đáng kể với Tolerance dao động từ 0,67-0,776; VIF dao động từ 1,288-1,491, bảo đảm độ ổn định của ước lượng; hằng số mô hình có ý nghĩa (B = 1,428; t = 6,197; Sig. = 0,000), phản ánh mức cơ sở của INT.

Phương trình hồi quy được viết dưới dạng:

INT = 0,122*ATT + 0,121*SNF + 0,108*PBC + 0,261*PE + 0,180*PE + e

Hoặc đầy đủ hơn:

Ý định học tiếp = 0,122*Thái độ đối với học tiếp + 0,121*Chuẩn mực gia đình + 0,108*Kiểm soát hành vi nhận thức + 0,261* Khả năng có việc làm + 0,180*Cảm nhận học tiếp +e

Trong đó: e là hằng số

Thảo luận nghiên cứu

Kết quả đo lường và mô hình hóa cho thấy, bộ thang đo đạt độ tin cậy và giá trị cấu trúc ở mức chấp nhận được, qua đó cung cấp nền tảng vững chắc cho quá trình suy luận nghiên cứu. Cụ thể, Cronbach’s Alpha dao động từ 0,687-0,794; phân tích EFA cho kết quả KMO = 0,836, kiểm định Bartlett có ý nghĩa và 5 yếu tố giải thích 58,565% phương sai, với tải nhân tố quy tụ “sạch” theo từng yếu tố. Ở cấp quan hệ dự báo, mô hình hồi quy đạt mức phù hợp thống kê (F có ý nghĩa; R² ≈ 0,271; Durbin-Watson ≈ 1,703; VIF dao động từ 1,288-1,491), qua đó củng cố độ ổn định của các ước lượng.

Kết quả phân tích cho thấy, 3 yếu tố có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa đến Ý định học tiếp là Khả năng có việc làm cảm nhận (β ≈ 0,261), Lợi ích kỳ vọng của học tiếp (β ≈ 0,180) và Thái độ đối với học tiếp (β ≈ 0,122). Phát hiện này phù hợp với Lý thuyết Hành vi dự định khi thái độ là động lực cốt lõi của ý định, đồng thời cộng hưởng với các luận điểm về vốn nhân lực và tín hiệu: người học nâng ý định khi đánh giá rõ lợi tức giáo dục và nhìn nhận triển vọng chuyển hóa kỹ năng thành cơ hội nghề nghiệp tốt hơn. Đáng chú ý, dấu dương của PE, thay vì âm như cách lý giải chi phí cơ hội gợi mở cơ chế “học để tăng tốc”, theo đó những sinh viên tự tin về khả năng có việc làm trong 3 đến 6 tháng đầu khi ra trường vẫn lựa chọn đầu tư học tiếp để rút ngắn thời gian thăng tiến hoặc gia tăng khả năng thương lượng trên thị trường lao động. Điều này phản ánh đặc thù đô thị lớn, nơi các mô hình học-làm linh hoạt và tín chỉ ngắn hạn ngày càng phổ biến.

Trong khi Kiểm soát hành vi nhận thức (PBC) có tác động dương ở mức biên, hàm ý rằng các rào cản về thời gian, tài chính và năng lực học thuật vẫn có thể biến động lực thành ý định. Khi PBC chưa đủ mạnh, ngay cả thái độ tích cực và kỳ vọng lợi ích cao cũng khó chuyển hóa trọn vẹn thành kế hoạch học tiếp. Ngược lại, Chuẩn mực gia đình (SNF) không còn ý nghĩa khi đưa đồng thời các yếu tố khác vào mô hình. Có 2 khả năng đáng cân nhắc: (i) Ảnh hưởng của gia đình được hấp thụ qua kênh nguồn lực làm tăng kiểm soát hành vi nhận thức và cảm nhận về lợi tức giáo dục; (ii) Mức độ tự chủ của người học ở bối cảnh đô thị làm suy giảm tác động trực tiếp của chuẩn mực gia đình, nhất là khi tín hiệu thị trường lao động và lợi tức giáo dục trở thành cơ sở ra quyết định quan trọng hơn. Việc α của SNF tiệm cận ngưỡng cũng gợi ý cần tinh chỉnh thang đo, tách riêng kỳ vọng và hỗ trợ hữu hình để bắt được kênh tác động gián tiếp.

Về thực tiễn, thứ bậc ảnh hưởng PE > ROI > ATT > PBC > SNF cho thấy ưu tiên can thiệp nên tập trung vào minh bạch hóa ROI theo ngành, phát triển các lộ trình học, làm linh hoạt nhằm giảm chi phí cơ hội và nâng cảm nhận kiểm soát qua học bổng theo nhu cầu, cố vấn học thuật và hỗ trợ kỹ năng học tập. Đồng thời, tăng cường liên kết với doanh nghiệp sẽ vừa củng cố PE vừa làm rõ ROI, từ đó gia tăng xác suất hình thành ý định học tiếp của sinh viên mới tốt nghiệp ra trường.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết luận

Nghiên cứu xác nhận chất lượng đo lường và cấu trúc của bộ thang đo trong bối cảnh sinh viên mới tốt nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, qua đó tạo nền tảng vững chắc cho suy luận thực nghiệm. Các thang đo đạt độ tin cậy chấp nhận được (Hệ số Cronbach’s Alpha dao động từ 0,687-0,794), giá trị cấu trúc được khẳng định bằng phân tích EFA, với KMO = 0,836, kiểm định Bartlett có ý nghĩa và 5 nhân tố giải thích 58,565% phương sai cộng dồn. Mô hình hồi quy tuyến tính cho thấy mức phù hợp chấp nhận được và không xuất hiện đa cộng tuyến đáng kể.

Về nội dung, 3 yếu tố có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê đến ý định học tiếp gồm: Khả năng có việc làm cảm nhận, Lợi ích kỳ vọng của học tiếp và Thái độ đối với học tiếp; Kiểm soát hành vi nhận thức tác động dương ở mức biên, trong khi Chuẩn mực gia đình không còn ý nghĩa khi xét đồng thời các biến khác. Kết quả này củng cố tính thích hợp của Lý thuyết Hành vi dự định trong bối cảnh địa phương, đồng thời phù hợp với các luận điểm về vốn nhân lực và tín hiệu khi người học ra quyết định dựa trên đánh giá lợi tức giáo dục và triển vọng chuyển hóa kỹ năng thành cơ hội nghề nghiệp.

Từ các phát hiện trên, nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc minh bạch hóa lợi ích học tiếp theo ngành, phát triển mô hình học kết hợp với làm để giảm chi phí cơ hội và tăng cường hỗ trợ học thuật, tài chính nhằm nâng cảm nhận kiểm soát của người học; đồng thời gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo với thiết kế dọc và kiểm định cơ chế trung gian, điều tiết giữa lợi ích kỳ vọng, kiểm soát hành vi nhận thức và ý định học tiếp để nâng cao tính khái quát và độ bền của kết quả.

Khuyến nghị

Để đảm bảo tính minh bạch về lợi ích học tập của sinh viên theo từng ngành, đồng thời phát triển linh hoạt mô hình vừa học vừa làm cho sinh viên sau tốt nghiệp, cũng như tăng cường các hình thức hỗ trợ học thuật và tài chính nhằm nâng cao cảm nhận kiểm soát của người học, cần triển khai hiệu quả một số khuyến nghị sau:

Một là, đối với các cơ sở giáo dục đại học, cần minh bạch hóa và truyền thông rõ ràng về lợi ích của việc học tiếp theo từng ngành dựa trên dữ liệu việc làm, tiền lương và quỹ đạo thăng tiến. Đồng thời, cần phát triển các mô hình học kết hợp với đi làm một cách linh hoạt (như lớp buổi tối, cuối tuần, tín chỉ xếp chồng, thực tập có hướng dẫn) nhằm giảm chi phí cơ hội. Bên cạnh đó, việc tăng cường hỗ trợ người học thông qua học bổng theo nhu cầu, hỗ trợ tài chính vi mô, cố vấn học thuật cá nhân hóa và dịch vụ kỹ năng học thuật sẽ góp phần nâng cao cảm nhận kiểm soát trong quá trình học tập.

Hai là, đối với các doanh nghiệp, cần phối hợp thiết kế lộ trình “học kèm việc” cho nhân viên mới, đồng thời hỗ trợ học phí và công nhận tín chỉ vi mô trong hệ thống thăng tiến nội bộ. Bên cạnh đó, việc mở rộng các vị trí thực tập có trả lương và triển khai các dự án thực tế sẽ vừa củng cố lợi ích kỳ vọng, vừa duy trì động lực học tập, qua đó tạo điều kiện tăng tốc phát triển cho nhóm lao động có triển vọng việc làm cao.

Ba là, đối với cơ quan quản lý nhà nước trong công tác hoạch định chính sách, cần mở rộng các công cụ tài chính hỗ trợ sinh viên một cách linh hoạt, đồng thời khuyến khích sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp thông qua cơ chế ưu đãi. Bên cạnh đó, việc chuẩn hóa hệ thống thông tin thống kê thị trường lao động theo ngành là cần thiết để các cơ sở đào tạo điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp, cung cấp thông tin cập nhật kịp thời và chính xác cho người học.

Tài liệu tham khảo:

1. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), 179-211.

2. Field, A. (2013). Discovering statistics using IBM SPSS Statistics (4th ed.). Sage.

3. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., & Anderson, R. E. (2019). Multivariate data analysis (8th ed.). Cengage.

4. Lent, R. W., Brown, S. D., & Hackett, G. (1994). Toward a unifying social cognitive theory of career and academic interest, choice, and performance. Journal of Vocational Behavior, 45(1), 79-122.

5. Nunnally, J. C., & Bernstein, I. H. (1994). Psychometric theory (3rd ed.). McGraw-Hill.

6. Spence, M. (1973). Job market signaling. The Quarterly Journal of Economics, 87(3), 355-374.

7. Tabachnick, B. G., & Fidell, L. S. (2019). Using Multivariate Statistics (7th ed.). Pearson.

8. Yorke, M. (2006). Employability in higher education: What it is - what it is not. Higher Education Academy.

Ngày nhận bài: 20/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/9/2025; Ngày duyệt đăng: 24/9/2025