ThS. Đoàn Tất Thành

Khoa Kế toán, Trường Đại học Lao động- Xã hội

CN. Đỗ Hà Chi

Học viện Tài chính

Email: nghiencuukhoahocj@gmail.com

Tóm tắt

Nghiên cứu tổng quan và đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện kế toán quản trị chiến lược (SMA) tại các doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam. Lý thuyết ngẫu nhiên được vận dụng nhằm xác định mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường đến vận dụng SMA. Thông qua phương pháp định tính, các nhân tố ngẫu nhiên được chỉ ra gồm: quy mô doanh nghiệp, định hướng chiến lược, công nghệ, mức độ cạnh tranh và nhận thức về môi trường kinh doanh. Việc đánh giá đầy đủ tác động của các nhân tố ảnh hưởng giúp các nhà quản trị có kế hoạch thúc đẩy việc áp dụng SMA, kiểm soát tác động do môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp gây ra, giúp tăng hiệu quả kinh doanh và hướng tới phát triển bền vững.

Từ khoá: Kế toán quản trị chiến lược, lý thuyết ngẫu nhiên, quản trị chiến lược

Summary

The article reviews and proposes a model of factors affecting the implementation of strategic management accounting (SMA) in Viet Nam's manufacturing enterprises. The contingency theory is applied to determine the relationship between environmental factors and the application of SMA. Through qualitative methods, the contingency factors are identified as: enterprise size, strategic orientation, information technology, accounting qualifications, level of competition and awareness of the business environment. With a full assessment of the impacts of influencing factors, it helps managers plan to promote the application of SMA, control the impact caused by the internal and external environment of the enterprise, help increase business efficiency and move towards sustainable development.

Keywords: Strategic management accounting, contingency theory, strategic management

ĐẶT VẤN ĐỀ

Môi trường kinh doanh (MTKD) đầy biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt đã đặt ra không ít thách thức đối với các nhà quản trị trong việc duy trì và phát triển bền vững doanh nghiệp. MTKD đã trải qua những thay đổi đáng kể do toàn cầu hoá và sự phát triển của công nghệ, sản xuất (Burgstahler và cộng sự, 2007). Bối cảnh này đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong việc quản lý và tổ chức của các doanh nghiệp, đòi hỏi lĩnh vực kế toán quản trị phải chuyển mối quan tâm từ những yếu tố mang tính truyền thống về các con số và biện pháp kế toán sang tập trung vào việc gia tăng và tích hợp giá trị trong một doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng và sự không chắc chắn của MTKD, kế toán quản trị chiến lược (SMA) được xem như một cách tiếp cận nâng cao của kế toán quản trị để thực hiện vai trò tư vấn chiến lược. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chưa vận dụng đầy đủ nội dung của từng kỹ thuật SMA trong cung cấp thông tin kế toán định hướng bên ngoài và định hướng thị trường. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, thực hiện SMA sẽ giúp doanh nghiệp chuẩn hoá hoạt động sản xuất kinh doanh, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu tác động đến môi trường, từ đó nâng cao hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc áp dụng SMA tại nhiều doanh nghiệp sản xuất (DNSX) chưa thực sự được quan tâm và thực hiện đúng mức. Vì vậy, nghiên cứu kỳ vọng sẽ làm rõ các nhân tố ngẫu nhiên ảnh hưởng tới việc thực hiện SMA trong các DNSX tại Việt Nam.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Simmonds (1982) định nghĩa SMA là “việc cung cấp và phân tích dữ liệu KTQT về một doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh để sử dụng trong việc phát triển và giám sát chiến lược kinh doanh”. Bromwich (1990), SMA là việc cung cấp và phân tích thông tin tài chính về thị trường sản phẩm của doanh nghiệp cũng như chi phí, cấu trúc chi phí của đối thủ cạnh tranh và giám sát các chiến lược của doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh trên các thị trường này qua nhiều kỳ.

Fred Fiedler (1960) đặt ra nền tảng cho lý thuyết ngẫu nhiên và được Lawrence và Lorsch (1967) phát triển. Lý thuyết này nhấn mạnh rằng không có một phong cách lãnh đạo hoặc một phương pháp quản lý nào là tối ưu cho mọi tình huống, mà hiệu quả phụ thuộc vào sự phù hợp giữa các yếu tố lãnh đạo/tổ chức và các yếu tố tình huống cụ thể. Nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung các biến như quy mô, trình độ nhân viên, chiến lược (Langfield- Smith, 2006) và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến KTQT. Bên cạnh đó, các nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực kế toán đã chỉ ra rằng các yếu tố về sự biến động về MTKD và chiến lược MTKD có ảnh hưởng đến việc lựa chọn hệ thống thông tin kế toán (Hutaibat, 2005).

Dựa trên lý thuyết ngẫu nhiên, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã đánh giá những nhân tố ngẫu nhiên ảnh hưởng đến thực hiện SMA, điển hình:

Phạm vi quốc tế, nghiên cứu của Cadez & Guilding (2008) cho thấy, SMA không thể thiếu trong nhóm hoạch định chiến lược, mà nhóm này lại là nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng SMA. Pavlatos (2015) thực hiện nghiên cứu trên mẫu 106 khách sạn hàng đầu ở Hy Lạp và phát hiện ra mối quan hệ giữa các yếu tố bối cảnh với SMA và hiệu quả trong quá khứ của doanh nghiệp. Kết quả đã chỉ ra 7 yếu tố ngẫu nhiên ảnh hưởng đến việc vận dụng SMA như: nhận thức về sự không chắc chắn về MTKD, cấu trúc tổ chức, chất lượng thông tin, giai đoạn vòng đời tổ chức, hiệu suất lịch sử, chiến lược và quy mô. Tiếp đến, Hadid & Al-Sayed (2021) đã bổ sung vai trò của kế toán viên trong việc đề nghị và thực hiện các thực hành SMA cùng với một hệ thống thông tin chất lượng đóng vai trò hỗ trợ cho sự vận hành mạng lưới làm việc của kế toán, giúp tương tác và giao tiếp hiệu quả với những nhà quản lý tiến tới thực hiện thành công các thực hành SMA.

Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng SMA trong các lĩnh vực, như: Lĩnh vực sản xuất với phạm vi rộng, nghiên cứu của Nương (2021) đã sử dụng lý thuyết ngẫu nhiên, lý thuyết thể chế và lý thuyết cấp trên để đưa ra những nhận định về các nhân tố: văn hóa DNSX, hiểu biết thực thi kém (PEU), chiến lược kinh doanh, công nghệ, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp và trình độ nhân viên có thể tác động đến việc vận dụng SMA tại DNSX; Trong ngành hàng tiêu dùng, nghiên cứu của Thieu & Thanh (2021) tương đồng với các nghiên cứu trước về các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng SMA, nhưng yếu tố công nghệ có tác động mạnh nhất.

Từ cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước đây cho thấy, trong các điều kiện, bối cảnh thực tế, SMA được kỳ vọng phát triển liên tục để đáp ứng nhu cầu trong quá trình ra quyết định. Một số nhân tố được quan tâm trong nhiều nghiên cứu như: quy mô doanh nghiệp, định hướng chiến lược, định hướng thị trường, đặc điểm CEO, văn hóa/cấu trúc doanh nghiệp, sự tham gia của kế toán viên, công nghệ. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này đều không xem xét một cách toàn diện tất cả các nhân tố. Mặt khác, những phát hiện trong các nghiên cứu trước còn có nhiều điểm không nhất quán. Chẳng hạn, kết quả của một số nghiên cứu không phù hợp với những kỳ vọng từ lý thuyết hoặc trái với những lập luận và phát hiện của nhiều tác giả trong các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến áp dụng kế toán chiến lược. Do vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ và đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng từ lý thuyết ngẫu nhiên đến thực hiện SMA trong các DNSX tại Việt Nam.

CÁC NHÂN TỐ NGẪU NHIÊN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SMA TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM

Quy mô doanh nghiệp

Trong lý thuyết ngẫu nhiên, quy mô doanh nghiệp liên quan đến số lượng lao động, phạm vi địa lý, doanh thu hoặc vốn hóa thị trường của doanh nghiệp. Quy mô tăng lên biểu thị sự gia tăng phức tạp và cấp thiết phải có các phương thức để quản lý sự phức tạp trong kế toán (Cadez & Guilding, 2008). Ngoài ra, quy mô là nhân tố có tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp các sức mạnh từ các nguồn lực hiện có và có thể huy động được; từ nguồn lực này mà quy mô doanh nghiệp có thể tác động đến cấu trúc và sự sắp xếp về mặt kiểm soát trong doanh nghiệp (Otley, 1995). Một doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có nhiều phòng ban và nhu cầu thông tin được truyền đạt phức tạp hơn, khác doanh nghiệp thông thường với KTQT truyền thống xác định chi phí và kiểm soát tài chính dễ dàng. Doanh nghiệp quy mô lớn tạo ra giá trị thông qua vô số nguồn, sự phức tạp của các nguồn ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng hệ thống KTQT cung cấp những thông tin liên quan đến việc lập kế hoạch, kiểm soát và ra quyết định nhằm mục đích tạo ra hoặc nâng cao giá trị. Việc chuyển đổi quy trình KTQT phức tạp hơn đòi hỏi các nguồn lực không chỉ là tài chính mà cả nguồn lực con người (chuyên gia) khiến chi phí phát sinh, so với các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ có khả năng áp dụng các quy trình KTQT phức tạp hơn (Abdel-kader & Luther, 2008). Cùng với đó, doanh nghiệp phát triển đã đặt ra các vấn đề gia tăng kiểm soát, do đó các quy trình kế toán và kiểm soát trở nên chặt chẽ, chuyên nghiệp và tinh vi hơn (Hoque & James, 2000). Như vậy, quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến việc vận dụng SMA trong các DNSX với giả thuyết được đề xuất như sau:

H1: Quy mô có ảnh hưởng cùng chiều đến việc thực hiện SMA trong DN

Chiến lược

Trong nghiên cứu này, định hướng chiến lược được hiểu là một chiến lược kinh doanh (CLKD) tập trung vào việc đổi mới sản phẩm và tìm kiếm cơ hội trên thị trường mới (Miles & Snow, 1978). Theo đó, các nhà quản trị cần xây dựng chiến lược phù hợp với nhu cầu của môi trường bên ngoài hay còn gọi là chiến lược thích nghi như là chiến lược tìm kiếm triển vọng phát triển (prospector), chiến lược phòng thủ (defender), chiến lược phân tích (analyzer) và chiến lược phản ứng (reactor). Miles & Snow đã đưa ra ý tưởng rằng, trong một ngành hoặc môi trường cụ thể, có thể có nhiều con đường để phát triển thịnh vượng nhưng không phải là vô số, thay vào đó là một số hình mẫu cơ bản mà doanh nghiệp có thể lựa chọn để đạt được mục tiêu của mình. Các doanh nghiệp phát triển chiến lược dựa trên nhận thức về môi trường, có các chiến lược cho phép một số doanh nghiệp thích nghi hơn hoặc nhạy cảm hơn với MTKD để phù hợp với mục tiêu của bản thân doanh nghiệp. Các doanh nghiệp theo chiến lược hướng đến triển vọng phát triển là loại hình doanh nghiệp thích ứng nhất. Ngược lại, doanh nghiệp theo chiến lược phản ứng là kém thích nghi nhất, đây là loại doanh nghiệp khó bền vững. Chiến lược tìm kiếm triển vọng phát triển nhấn mạnh vào sự đổi mới sản phẩm và tìm kiếm các cơ hội mới trên thị trường. Abernethy & Guthrie (1994) nhận định rằng hệ thống KTQT phức tạp có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động ở các doanh nghiệp đang áp dụng chiến lược tìm kiếm triển vọng phát triển hơn so với các doanh nghiệp áp dụng chiến lược phòng thủ. Với lập luận này, tác giả kỳ vọng định hướng chiến lược của doanh nghiệp là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng SMA của các doanh nghiệp với giả thuyết được đề xuất:

H2: Định hướng chiến lược có ảnh hưởng cùng chiều với việc thực hiện SMA.

Công nghệ

Trong nghiên cứu này, sử dụng công nghệ được hiểu là việc sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào hỗ trợ các quyết định, tích hợp công việc và dịch vụ khách hàng của doanh nghiệp. Theo lý thuyết ngẫu nhiên, công nghệ là một trong những biến chính có vai trò quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

CNTT đang hiện diện và đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong quá trình quản trị, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, CNTT đóng vai trò rất lớn để tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp (Bromwich, 1990). CNTT từ vai trò hỗ trợ đã chuyển sang làm thay đổi sâu sắc nhiều vấn đề, nhiều hoạt động trong đời sống kinh tế - xã hội khiến các doanh nghiệp cần nhận thức sâu hơn về KTQT cùng với những nội dung, phương pháp kỹ thuật mới kết nối với nhiều vấn đề chiến lược - kỹ thuật công nghệ - quản trị trong đo lường, đánh giá, phân tích (Huỳnh Lợi, 2014).

Một yêu cầu thông tin đối với SMA là thu thập tất cả dữ liệu chi phí bên trong và bên ngoài để có thể đạt được quyết định đầy đủ. Như vậy, cùng với những những tiến bộ trong công nghệ thông tin và hệ thống thông tin quản lý có nghĩa là nhiều sản phẩm và bộ phận của doanh nghiệp được chia sẻ thông tin giúp cho việc quyết định chất lượng hơn (Bromwich, 1990). Việc sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến dẫn đến nhiều thông tin khả dụng hơn, tính khả dụng của các công nghệ thông tin làm gia tăng các lựa chọn hoặc hỗ trợ ra quyết định cho người dùng, do đó làm tăng hiệu quả, chất lượng cho quá trình ra quyết định của người dùng (Huber, 1990). Do đó, việc sử dụng công nghệ thông tin được xem xét như là một nhân tố tác động đến sự thay đổi thực hành kế toán quản trị hay cụ thể là vận dụng SMA. Giả thuyết nghiên cứu được đưa ra là:

H3: Sử dụng công nghệ trong doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến thực hiện SMA

Trình độ kế toán

Trình độ kế toán được hiểu là năng lực của kế toán viên giúp làm tăng giá trị cho doanh nghiệp. Đây là một yếu tố ngẫu nhiên liên quan đến môi trường bên trong doanh nghiệp. Kế toán chiến lược là một phần không thể thiếu trong quá trình ra quyết định, doanh nghiệp thường phải đối mặt với tình trạng thiếu kỹ năng trong nhiều khía cạnh dữ liệu,và các kế toán viên chuyên nghiệp có thể đảm nhiệm những vai trò này. Kế toán ngày nay cần phải thể hiện như một đối tác chiến lược thực sự, người tham gia phải giải quyết vấn đề (Oliver, 1991). Kế toán đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp hình thành chiến lược, phân tích chi phí chiến lược, tham gia vào việc lập mô hình cấu trúc chi phí của các đối thủ cạnh tranh.

Bromwich (1990) cho rằng kế toán có thể đóng vai trò quan trọng hơn trong các quyết định chiến lược, đặc biệt là trong các quyết định đa dạng hóa bằng cách xác định các chi phí thuộc tính và theo dõi hiệu suất của các thuộc tính này theo thời gian. Những kế toán chiến lược này có thể thu hẹp khoảng cách giữa kế toán truyền thống và quản lý chiến lược, cung cấp cho các nhà quản lý các loại thông tin cần thiết để đưa ra quyết định sáng suốt, kịp thời. Cadez & Guilding (2008) có ý kiến ​​rằng vai trò của kế toán quản trị đã chuyển từ các chức năng thông thường sang các chức năng chiến lược, đây là công cụ rất quan trọng trong việc phân tích, cân nhắc trong việc đưa ra các quyết định dài hạn với giả thuyết nghiên cứu:

H4: Trình độ kế toán ảnh hưởng cùng chiều mức độ vận dụng SMA

Mức độ cạnh tranh

Cạnh tranh là một yếu tố mà các doanh nghiệp đang hoạt động trong cơ chế thị trường luôn gặp phải, đây là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Mức độ cạnh tranh là sự cạnh tranh mà một doanh nghiệp phải đối mặt trên các phương diện về nguyên liệu và tư liệu sản xuất, nhân sự có chuyên môn, chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm...

Cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ngoài hoàn thiện cách thức tổ chức sản xuất, các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao còn quan tâm đến hoàn thiện tổ chức và cũng là thách thức của kế toán quản trị trong lập kế hoạch và kiểm soát (Dent, 1996) bao gồm việc sử dụng và điều chỉnh kế toán quản trị. SMA được dự kiến sẽ đóng góp cho việc có thêm thông tin đa dạng và tập trung bên ngoài doanh nghiệp, các thông tin này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp phản ứng để cạnh tranh hiệu quả và thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng (Bromwich, 1990).

Bên cạnh đó, quan điểm của Bromwich & Bhimani (1994) cho rằng, trong bối cảnh thị trường cạnh tranh toàn cầu, việc duy trì quản lý theo cách tiếp cận ngắn hạn và tập trung thông tin nội bộ doanh nghiệp là không phù hợp mà đòi hỏi thông tin phải mang tính bền vững và và định vị chiến lược lâu dài. Từ những ý kiến trên có thể thấy rằng trong các nghiên cứu trước mức độ cạnh tranh là một nhân tố tác động đến việc thay đổi kế toán quản trị theo hướng chiến lược, vì vậy giả thuyết nghiên cứu đặt ra là:

H5:Mức độ cạnh tranh ảnh hưởng cùng chiều với vận dụng SMA

Nhận thức về môi trường kinh doanh

Theo Chenhall (2003), MTKD là một yếu tố bất khả kháng của lý thuyết ngẫu nhiên. Khi môi trường tổ chức năng động và không ổn định, tổ chức có nhiều khả năng sẽ áp dụng hệ thống kiểm soát với các luồng thông tin có tính linh hoạt để khuyến khích đổi mới. MTKD là các yếu tố cả bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến sự hoạt động của doanh nghiệp. Trong điều kiện lý tưởng thì các nhà quản lý sẽ ra quyết định khi có đủ thông tin và điều kiện cần thiết để giải quyết vấn đề. Nhà quản trị sẽ cần thông tin KTQT phi truyền thống và tiên tiến hơn để đối phó với sự không chắc chắn và đưa ra quyết định phù hợp hơn. Cũng như các nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp trong tình trạng hiểu biết thực thi kém cần một hệ thống KTQT có phạm vi rộng, tổng hợp, tinh xảo hơn để hỗ trợ các hoạt động (H. Al-Mawali, 2015; Chenhall & Morris, 1986; Gul & Chia, 1994; S. Hamad & cộng sự, 2013). Từ những nhận định và kết quả nghiên cứu trước, tác giả đề xuất giả thuyết:

H6: Nhận thức về MTKD ảnh hưởng cùng chiều đến vận dụng SMA

Từ các nhân tố đã được chỉ ra, nghiên cứu đề xuất mô hình các nhân tố ngẫu nhiên ảnh hưởng đến thực hiện SMA trong các doanh nghiệp sản xuất như Hình.

Hình: Mô hình đề xuất

Các nhân tố ngẫu nhiên ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị chiến lược trong các doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, vấn đề về phát triển bền vững đã trở thành chủ đề thời sự có tính toàn cầu. SMA đã và đang được ứng dụng trong các DNSX thuộc nhiều ngành kinh tế và tập trung nhiều vào những ngành công nghiệp nặng (khai khoáng, xi măng, hoá chất,...). Yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp, tổ chức cần đánh giá đúng đắn các nhân tố ảnh hưởng để thực hiện SMA phù hợp, giúp kiểm soát và tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng các nguồn lực. Các doanh nghiệp cần có chiến lược tích cực (hướng tới mục tiêu kiểm soát chi phí, chiến lược phát triển bền vững), có ý thức sử dụng tiết kiệm tài nguyên và tìm các nguyên liệu đầu vào thay thế thân thiện với môi trường, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, đưa quy trình sản xuất hiện đại, giảm khí thải, giảm thiểu tác động đến môi trường. Để làm được việc này, cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hoàn thiện và thực thi hệ thống văn bản Luật, các văn bản hướng dẫn, cũng như sự quyết tâm của doanh nghiệp.

Tài liệu tham khảo:

1. Anh, D. N. P. (2012). Factors Affecting Strategic Management Accounting in Vietnam’s Medium and Large- Sized Enterprises, Jed, Ocober (214), 81-90.

2. Bromwich, M. (1990). The case for strategic management accounting : the role of accounting information for strategy in competitive markets *. Accounting, Organizations and Society, 15(l), 27–46.

3. Burgstahler D., Horngren C. T., Schatzberg J., Stratton W. O. and Sundem G. L. (2007). Introduction to management accounting, 14th ed., Pearson/Prentice Hall, Upper Saddle River, NJ.

4. Cadez, S., & Guilding, C. (2008). An exploratory investigation of an integrated contingency model of strategic management accounting, Accounting, Organizations and Society, 33(7-8), 836-863. https://doi.org/10.1016/j.aos.2008.01.003.

5. Hadid, W., & Al-Sayed, M. (2021). Management accountants and strategic management accounting: The role of organizational culture and information systems, Management Accounting Research, https://doi.org/10.1016/j.mar.2020.100725.

6. Huber, G. P. (1990). A theory of the effects of advanced information technologies on organizational design, intelligence, and decision making, Academy of Management Review, 15(1), 47-71.

7. Huỳnh Lợi (2019). Xây dựng KTQT trong doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam, Tạp chí Công thương, số 26, 11/2020

8. Phan Thanh Tú, Vũ Mạnh Chiến, Phạm Văn Kiệm, Lưu Đức Tuyến, Nguyễn Thị Hồng Nga (2018). Học Thuyết Doanh Nghiệp, NXB Lao Động – Xã Hội.

9. Lê Thị Mỹ Nương (2021). Các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng SMA và sự tác động của SMA đến thành quả hoạt động của DNSX. Đại học Kinh tế TP. HCM.

10. Oliver, C. (1991). Strategic responses to institutional processes, Academy of Management Review, Vol. 16, pp.145-179

11. Pavlatos, O. (2015). An empirical investigation of strategic management accounting in hotels, International Journal of Contemporary Hospitality Management, Vol. 27(No. 5), 756-767, https://doi.org/https://doi.org/10.1108/IJCHM-12-2013-0582.

12. Simmonds, K. (1981). Strategic management accounting. Management Accounting (UK), 59(4), 26–29.

13. Turner, M. J., Way, S. A., Hodari, D., & Witteman, W. (2017). Hotel property performance: The role of strategic management accounting, International Journal of Hospitality Management, 63, 33-43. https://doi.org/10.1016/j.ijhm.2017.02.001.

Ngày nhận bài: 16/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 26/8/2025; Ngày duyệt đăng: 28/8/2025