Nguyễn Văn Tùng

Công ty Cổ phần Hóa dầu Quân đội

Email: Dinhtung120288@gmail.com

Tóm tắt

Trong bối cảnh việc thực hiện tiêu chuẩn ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) trở thành một yêu cầu quan trọng trong phát triển bền vững, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích và hướng dẫn việc áp dụng tiêu chuẩn này. Trên cơ sở đó, ngành ngân hàng tại Việt Nam đã tích hợp ESG vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, việc triển khai ESG vẫn gặp nhiều khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng triển khai ESG trong ngành ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 2015-2025, qua đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy triển khai hiệu quả hơn tiêu chẩn này trong thời gian tới.

Từ khóa: ESG, ngân hàng, Việt Nam, hoạt động kinh doanh

Summary

In the context where implementing ESG (Environmental - Social - Governance) standards has become a crucial requirement for sustainable development, the Vietnamese Government has introduced various policies to encourage and guide their adoption. Based on this foundation, the banking sector in Viet Nam has begun integrating ESG principles into business operations. However, the implementation process still faces significant challenges. This paper analyzes the current state of ESG adoption in Viet Nam’s banking industry during the period 2015-2025 and proposes several recommendations to enhance the effectiveness of ESG implementation in the coming years.

Keywords: ESG, banking, Viet Nam, business operations

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiêu chuẩn ESG bao gồm 3 yếu tố: Environmental (Môi trường), Social (Xã hội) và Governance (Quản trị). Đây là bộ khung về hệ thống quản trị tại doanh nghiệp, được sử dụng để đo lường mức độ phát triển bền vững và tác động của doanh nghiệp đến môi trường và cộng đồng. Tiêu chí môi trường đánh giá cách thức một doanh nghiệp tương tác với môi trường tự nhiên, bao gồm các vấn đề như quản lý chất thải, tiêu thụ năng lượng, bảo vệ đa dạng sinh học và giảm thiểu tác động lên biến đổi khí hậu… Tiêu chí xã hội đánh giá mối quan hệ của doanh nghiệp với các bên liên quan như nhân viên, khách hàng, cộng đồng và các đối tác… Các vấn đề như quyền lợi của người lao động, sức khỏe và an toàn, quản lý chuỗi cung ứng và tác động xã hội của doanh nghiệp cũng được xem xét ở đây. Tiêu chí quản trị bao gồm: quản lý rủi ro, cơ cấu hội đồng quản trị, đạo đức kinh doanh, minh bạch và trách nhiệm giải trình…

Trong những năm gần đây, ESG đã trở thành tiêu chí để đánh giá mức độ cam kết của tổ chức đối với phát triển bền vững. Theo Khan và cộng sự (2023), việc tích hợp ESG vào chiến lược kinh doanh của các tổ chức tài chính tương đồng với việc thực hiện 17 Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên hợp quốc, giúp tăng khả năng thu hút nguồn vốn có trách nhiệm và giảm thiểu rủi ro dài hạn. Trong lĩnh vực ngân hàng, ESG đóng vai trò kép, vừa là công cụ quản trị rủi ro, vừa là yếu tố nâng cao hiệu quả vận hành và gia tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế.

Là quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng nhiều bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế để đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Trong bối cảnh đó, việc ngành Ngân hàng Việt Nam xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn ESG là rất quan trọng. Bởi hoạt động này không chỉ giúp giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra, mà còn tạo ra cơ hội kinh doanh bền vững và tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI ESG TẠI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Những kết quả đạt được

Ngay từ năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đặt nền móng cho quá trình triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng, thông qua việc ban hành nhiều chính sách, cụ thể như: Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 6/8/2015 về Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường được lồng ghép vào quy định hiện hành trong lĩnh vực cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 đã quy định về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng phải phù hợp các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

Năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành 2 văn bản định hướng quan trọng là Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8/8/2018 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 986/QĐ-TTG ngày 7/8/2018 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, gắn với phát triển tín dụng xanh. Cùng với đó, NHNN cũng đã ban hành Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho 10 ngành kinh tế trong hoạt động cấp tín dụng. Đây được xem là bước đi đầu tiên trong tiến trình tích hợp các tiêu chí ESG vào hoạt động của ngành Ngân hàng.

Từ năm 2020, yêu cầu về minh bạch thông tin ESG ngày càng được củng cố, do đó, khung pháp lý về vấn đề này cũng ngày càng được hoàn thiện. Cụ thể, ngày 16/11/2020, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 96/2020/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, quy định các công ty niêm yết phải công bố Báo cáo phát triển bền vững, bao gồm thông tin về phát thải khí nhà kính, sử dụng tài nguyên và tác động xã hội. Điều này không chỉ nâng cao niềm tin của nhà đầu tư mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp, đặc biệt là ngân hàng, cải thiện hiệu quả hoạt động và giảm thiểu tác động môi trường.

Ngày 23/12/2022, NHNN đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể về việc quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Theo đó, yêu cầu các TCTD phải thực hiện các biện pháp như: đánh giá rủi ro môi trường, thiết lập chính sách và quy trình quản lý rủi ro môi trường, tăng cường khả năng đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.

Ngày 4/7/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh, hướng dẫn cho vay danh mục xanh và thống kê tín dụng xanh. Hiện nay, NHNN cũng đang phối hợp với các bộ, ngành đề xuất chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay thực hiện dự án xanh, tuần hoàn, áp dụng ESG.

Theo NHNN, đến nay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã có những bước chuyển mình đáng ghi nhận trong việc tích hợp ESG vào hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng như: BIDV, Vietcombank, VPBank và Agribank… đã đưa ESG vào chính sách tín dụng, xây dựng hệ thống đánh giá rủi ro môi trường - xã hội (ESMS) và tích hợp vào quy trình phê duyệt khoản vay.

Số liệu từ NHNN (2025) cho thấy, tính đến ngày 31/3/2025, đã có 57 TCTD triển khai đánh giá rủi ro môi trường - xã hội đối với danh mục tín dụng, với tổng dư nợ liên quan lên tới khoảng 3,62 triệu tỷ đồng, tăng hơn 15 lần so với năm 2017.

Ngoài ra, dư nợ tín dụng xanh toàn Ngành đã đạt khoảng 704.244 tỷ đồng, chiếm 4,3% tổng dư nợ tín dụng quốc gia, với tốc độ tăng trưởng bình quân ấn tượng hơn 21,2% mỗi năm trong giai đoạn 2017-2024.

Để thực hiện ESG, một công cụ quan trọng để đo lường, công bố và giám sát việc thực thi các tiêu chí ESG đã được đưa ra đó là Báo cáo phát triển bền vững. Theo GRI (2023), một Báo cáo bền vững chuẩn mực cần bao gồm thông tin định lượng và định tính về phát thải, sử dụng năng lượng, chính sách xã hội và quản trị doanh nghiệp. Báo cáo không chỉ là công cụ truyền thông với nhà đầu tư, mà còn là thước đo mức độ trưởng thành trong thực thi ESG.

Các ngân hàng tại Việt Nam hiện đang từng bước tiếp cận các chuẩn báo cáo phát triển bền vững của GRI và 2 chuẩn mực hướng dẫn công bố thông tin phát triển bền vững là công bố thông tin về tính bền vững (IFRS S1), công bố thông tin về khí hậu (IFRS S2) do Hội đồng Chuẩn mực Báo cáo Bền vững Quốc tế (ISSB) ban hành. Trong đó, VPBank và HDBank là 2 ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam công bố Báo cáo phát triển bền vững theo chuẩn GRI, có kiểm toán độc lập và tích hợp KPI ESG cụ thể. Việc chuẩn hóa báo cáo đang là xu hướng tất yếu, gắn liền với lộ trình hội nhập thị trường vốn xanh toàn cầu.

Theo NHNN, có khoảng 15 NHTM đã chủ động công bố Báo cáo phát triển bền vững đến giữa năm 2025, từng bước tiệm cận các chuẩn mực quốc tế như GRI và TCFD (Lực lượng đặc nhiệm về công bố thông tin tài chính liên quan đến khí hậu).

Một số thách thức trong quá trình thực thi

Dù đã đạt được những kết quả tích cực, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình thực thi ESG.

Bên cạnh 6 thách thức trong quá trình thực thi ESG đã được PwC (2023) tổng kết như: dự đoán các rủi ro liên quan; tích hợp chiến lược về ESG vào hệ sinh thái của ngân hàng; kiến thức của nhân sự và vướng mắc trong khâu quản lý các bên liên quan; vấn đề chất lượng dữ liệu, công tác thu thập, xử lý, quản lý và sử dụng dữ liệu để xây dựng mô hình dự đoán rủi ro; thiết lập, phổ biến và truyền thông thực hiện các cam kết về ESG; tích hợp ESG vào thông lệ quản lý rủi ro hiện hữu (Đào Lê Kiều Oanh và Cao Thị Kiều Oanh, 2024), tác giả tổng kết và chỉ ra một số thách thức sau:

Một là, khung pháp lý về thực hiện ESG tại Việt Nam chưa được hoàn thiện. Hiện chưa có quy định nào yêu cầu TCTD phải dành tỷ lệ tín dụng nhất định cho dự án xanh hoặc chịu trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện đánh giá rủi ro môi trường đúng quy trình, không báo cáo đầy đủ... Việc thiếu cơ chế ưu đãi hoặc ràng buộc mạnh khiến tín dụng xanh tại Việt Nam chủ yếu dựa vào thiện chí và định hướng nội bộ của từng TCTD. Việc các ngân hàng tự thiết kế báo cáo với nội dung và chỉ tiêu khác nhau gây khó khăn cho việc tổng hợp và đánh giá đồng bộ, trong khi xây dựng một bộ tiêu chuẩn định lượng đo lường mức độ tuân thủ ESG là bước đầu tiên và quan trọng nhất để các ngân hàng và tổ chức tài chính có thể đánh giá khách quan mức độ tuân thủ các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị của một dự án.

Hai là, năng lực phân tích ESG nội bộ còn hạn chế. Bộ phận chịu trách nhiệm ESG ở nhiều ngân hàng chưa được chuyên môn hóa, chủ yếu kiêm nhiệm hoặc gắn với bộ phận trách nhiệm xã hội (CSR), gây thiếu hụt chuyên môn phân tích ESG, yếu tố quan trọng để đo lường và minh bạch hóa rủi ro phi tài chính.

Ba là, chi phí triển khai ESG cao, trong khi thiếu nguồn lực hỗ trợ. Tính đến tháng 7/2025, mới có 6 tổ chức công bố hỗ trợ kỹ thuật hoặc vốn ưu đãi quốc tế để phát triển tín dụng xanh và hệ thống ESG nội bộ cho các ngân hàng tại Việt Nam, gồm: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc (KEXIM), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB). Phần lớn ngân hàng Việt Nam vẫn phải dùng vốn nội bộ, làm chậm tiến độ chuyển đổi xanh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và nông nghiệp carbon thấp.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Trên cơ sở thực trạng triển khai ESG tại hệ thống ngân hàng Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc triển khai ESG trong ngành Ngân hàng như sau:

Về phía Nhà nước

Trước hết, cần xây dựng một bộ khung tiêu chí ESG quốc gia đồng bộ, dựa trên tham chiếu các chuẩn mực quốc tế như GRI, ISSB/IFRS S1&S2 và TCFD, nhằm đảm bảo tính minh bạch, khả năng so sánh và hội nhập. Bộ tiêu chí này cần bao gồm các chỉ số đánh giá hiệu suất (KPI) cụ thể về phát thải khí nhà kính, hiệu quả sử dụng năng lượng, quản trị rủi ro xã hội và minh bạch thông tin quản trị.

Bên cạnh đó, cần ban hành chính sách ưu đãi, truyền thông để người dân, doanh nghiệp có ý thức hơn về bảo vệ môi trường thông qua các chương trình, chiến dịch… Việc xây dựng chương trình giáo dục chuyên sâu về ESG sẽ giúp nhân viên và quản lý trong các ngân hàng hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của các yếu tố môi trường và xã hội đối với quyết định kinh doanh và chiến lược đầu tư.

Ngoài ra, Nhà nước cũng cần đưa ra các hướng dẫn cụ thể và rõ ràng về việc báo cáo các chỉ số ESG để tạo ra một hệ thống thông tin minh bạch, hỗ trợ cả người đầu tư và khách hàng trong quá trình đưa ra quyết định.

Về phía các ngân hàng

Trước hết, cần thành lập Ban chỉ đạo ESG cấp hội đồng quản trị để đảm bảo tính chiến lược và cam kết lâu dài. Các ngân hàng cần xây dựng bộ phận ESG chuyên trách, với nhiệm vụ thu thập dữ liệu, xây dựng KPI ESG và giám sát việc triển khai xuyên suốt các phòng, ban. Đồng thời, cần phát triển chương trình đào tạo chuyên sâu về ESG cho cán bộ quản lý và nhân viên, kết hợp với các tổ chức quốc tế như: IFC, Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh quốc (ACCA) và ADB.

Công nghệ số đóng vai trò đòn bẩy quan trọng để thực thi ESG một cách hiệu quả và minh bạch. Do vậy, các ngân hàng cần đầu tư xây dựng kho dữ liệu ESG - một kho dữ liệu tập trung, tích hợp thông tin từ các hệ thống quản lý rủi ro tín dụng (CRMS), ngân hàng lõi (Core Banking) và các hệ thống internet vạn vật (IoT) giám sát phát thải ở các dự án tài trợ. Bên cạnh đó, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) sẽ giúp tự động hóa việc thu thập, phân tích và báo cáo dữ liệu ESG, từ đó giảm thiểu sai sót và nâng cao tốc độ ra quyết định. Ví dụ, hệ thống AI có thể dự báo mức độ rủi ro môi trường của các dự án vay vốn dựa trên các yếu tố khí hậu và dữ liệu địa lý. Đặc biệt, việc áp dụng công nghệ chuỗi khối (Blockchain) có thể tăng cường tính minh bạch trong quản lý dòng tiền xanh, giúp các nhà đầu tư dễ dàng theo dõi cách thức sử dụng vốn vay xanh và trái phiếu bền vững.

Bên cạnh đó, cần xây dựng văn hóa về ESG tại ngân hàng. Để tạo được tinh thần chủ động cho nhân sự, ngân hàng có thể có những chế độ thưởng, khuyến khích nhân sự thực hiện.

Tài liệu tham khảo:

1. Agribank (2025). Báo cáo nội bộ về thực thi ESG năm 2025.

2. BIDV (2025). Báo cáo tín dụng xanh và ESG năm 2025. https://www.bidv.com.vn/bao-cao-tin-dung-xanh-2025.

3. Đào Lê Kiều Oanh, Cao Thị Kiều Oanh (2024). Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. https://sbv.gov.vn/vi/w/sbv595235.

4. GRI (2023). Bộ tiêu chuẩn báo cáo phát triển bền vững GRI Standards - Phiên bản hợp nhất năm 2021 (cập nhật 2023). https://www.globalreporting.org/standards.

5. HDBank (2025). Báo cáo phát triển bền vững theo chuẩn GRI. https://www.hdbank.com.vn/bao-cao-phat-trien-ben-vung-gri-2025.

6. Khan, M., Serafeim, G., & Yoon, A (2023). Corporate sustainability: First evidence on materiality. The Accounting Review, 98(2), 345-378. https://doi.org/10.2308/TAR-2023-0324.

7. Ngân hàng Nhà nước (2025). Báo cáo toàn ngành về tín dụng xanh và ESG .https://www.sbv.gov.vn/bao-cao-tin-dung-xanh-2025.

8. PwC (2023). Thực trạng cam kết ESG và báo cáo phát triển bền vững của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. https://www.pwc.com/vn/en/publications/vietnam-publications/public-listed-companies-vn-esg-sustainability.html.

9. Thị trường Tài chính Tiền tệ (2025). Báo cáo chuyên đề ESG ngân hàng.https://thitruongtaichinh.vn/bao-cao-chuyen-de-esg-ngan-hang.

10. Vietcombank (2025). Báo cáo phát triển bền vững năm 2025. https://www.vietcombank.com.vn/bao-cao-ben-vung-2025.

11. VNBA (2025). Báo cáo tổng hợp tình hình ESG trong hệ thống ngân hàng. https://vnba.org.vn/bao-cao-esg-2025.

12. VPBank (2025). Báo cáo ESG theo chuẩn GRI, công bố tháng 6/2025. https://www.vpbank.com.vn/bao-cao-esg-gri-2025.

Ngày nhận bài: 15/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 20/10/2025; Ngày duyệt đăng: 124/10/2025