Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh kinh tế số tại Việt Nam
PGS, TS. Phạm Dương Phương Thảo
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Email: pdpthao@ueh.edu.vn
ThS.Vũ Minh Hà
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Email: vuminhha@ueh.edu.vn
Lê Thị Kim Linh
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Email: ltklin287@gmail.com
Tóm tắt
Bài viết xác định các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong bối cảnh kinh tế số. Kết quả cho thấy, bên cạnh những yếu tố quen thuộc như quy mô công ty, chất lượng nguồn nhân lực, cường độ vốn…, nghiên cứu này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của vị trí địa lý, đặc điểm ngành, khả năng cạnh tranh và môi trường đầu tư cũng là những yếu tố quyết định cần được cân nhắc trong quá trình xây dựng chính sách.
Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, ngành công nghiệp hỗ trợ, chuyển đổi số nền kinh tế, Việt Nam
Summary
The study identifies factors affecting the performance of supporting industry enterprises in the digital economy. The results show that, besides familiar factors such as company size, quality of human resources, capital intensity, etc., this study also emphasizes the crucial role of geographical location, industry characteristics, competitiveness, and investment environment as decisive factors that must be considered in the policy-making process.
Keywords: technical efficiency, supporting industry, digital transformation of the economy, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch Covid-19 xuất hiện đã làm thay đổi sâu sắc toàn bộ nền kinh tế thế giới và cả Việt Nam. Hàng loạt thách thức xuất hiện buộc các doanh nghiệp phải đối mặt trong bối cảnh “đóng cửa nền kinh tế” và “giãn cách xã hội”. Việc ứng dụng công nghệ số, tự động hóa sản xuất, áp dụng các hoạt động đổi mới sáng tạo đã và đang góp phần giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn từ cuộc khủng hoảng y tế lẫn kinh tế. Phần lớn các doanh nghiệp sử dụng nền tảng số cho việc gia tăng doanh thu, linh hoạt các phương thức thanh toán, marketing, quản trị và dịch vụ giao hàng. Kết quả này hàm ý các doanh nghiệp đã thiết lập nhận thức về vai trò của chuyển đổi số đến hiệu quả hoạt động của mình và chuyển đổi số tất yếu trở thành một yếu tố quan trọng, cần phải xem xét tác động của nó đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngành CNHT nói riêng.
Có thể thấy, các nghiên cứu thực nghiệm trước đây vẫn còn nhiều kết quả phân tích trái chiều nhau, chưa nhất quán và chưa đánh giá phân tích riêng các yếu tố này theo đặc thù của ngành CNHT Việt Nam. Đây chính là động lực để nhóm nghiên cứu thực hiện phân tích thực nghiệm này nhằm đánh giá các yếu tố nào thực sự tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành CNHT Việt Nam trong bối cảnh hoàn toàn mới so với trước đây.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Theo cách tiếp cận đường biên sản xuất của Farrell (1957), với cùng mức đầu vào, với trình độ kỹ thuật và quản lý khác nhau, các doanh nghiệp có mức hiệu quả khác nhau. Các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất hình thành nên đường biên sản xuất. Hàm khoảng cách được sử dụng để xem xét hiệu quả của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với đường biên sản xuất và được gọi là Hiệu quả kỹ thuật (TE) của doanh nghiệp. Hiệu quả kỹ thuật của từng doanh nghiệp được xem xét để đánh giá khả năng cải thiện năng suất của doanh nghiệp nhằm hướng tới trạng thái tối ưu. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá TE và các yếu tố tác động đến TE trong các ngành kinh tế (H. T. Nguyen, 2020).
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã tiến hành phân tích các yếu tố tác động lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong đó tập trung vào 5 yếu tố chính sau đây:
(1) Quy mô công ty
Quy mô công ty được chứng minh là một yếu tố quyết định có ý nghĩa thống kê đối với hiệu quả kỹ thuật của công ty và có tương quan tiêu cực với hiệu quả phi kỹ thuật của công ty (Chapelle và Plane, 2005). Tuy nhiên, mối quan hệ giữa quy mô công ty và hiệu quả kỹ thuật vẫn là một vấn đề gây tranh cãi. Theo cả góc độ thực nghiệm và lý thuyết, mối quan hệ của chúng vẫn chưa rõ ràng. Một số nhà nghiên cứu ủng hộ việc thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ trên cơ sở các lập luận về kinh tế và phúc lợi. Ví dụ, người ta cho rằng, việc mở rộng phân khúc doanh nghiệp nhỏ sẽ dẫn đến phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, phân phối thu nhập ít bất bình đẳng hơn và ít tình trạng thiếu việc làm hơn vì các doanh nghiệp nhỏ có xu hướng thâm dụng lao động hơn. Nhân viên của các công ty nhỏ có thể được thúc đẩy nhiều hơn bởi các chương trình khuyến khích dựa trên cạnh tranh, điều này có thể khiến các công ty nhỏ hiệu quả hơn. Trái lại, một công ty có quy mô lớn sẽ dễ thu hút lượng đơn đặt hàng lớn, điều này lại là một yếu tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp ngành CNHT. Các công ty thuộc ngành CNHT thường sử dụng nhiều vốn hơn, một số ngành CNHT như đúc và dập cần nhiều máy móc đắt tiền – các thiết bị sản xuất không thể chia nhỏ thành nhiều phần và vì vậy các doanh nghiệp trong ngành phải nỗ lực giảm chi phí vốn đơn vị bằng cách tăng sản lượng. Vì vậy, cần thiết phải có được những đơn hàng lớn đối với các sản phẩm CNHT để doanh nghiệp tồn tại, hoạt động tham gia thị trường và phát triển. Ohno (2007), Huyền (2018) chứng minh tác động thuận chiều của biến quy mô thị trường (thể hiện ở chỉ tiêu GDP cấp tỉnh và xuất nhập khẩu của doanh nghiệp) đối với gia tăng doanh thu ngành CNHT điện tử. Nhạn (2019) cũng khẳng định tác động thuận chiều của dung lượng thị trường đối với sự phát triển của CNHT tỉnh Bắc Ninh.
Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới cũng đưa ra nhiều lập luận trái chiều nhau về yếu tố này. Lundvall và Battese (2000) phát hiện ra rằng, mối quan hệ giữa quy mô công ty và hiệu quả kỹ thuật không nhất quán. Yang và Chen (2009) phát hiện ra rằng, hiệu quả kỹ thuật trung bình của các doanh nghiệp lớn cao hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi không xét đến hiệu ứng quy mô và ngược lại, hiệu quả kỹ thuật trung bình của các doanh nghiệp lớn cao hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi có xét đến quy mô công ty. Amornkitvikai và cộng sự (2014) khẳng định, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực sản xuất của Thái Lan có lợi nhuận theo quy mô giảm dần, mặc dù hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất của họ tương đối cao. Le và Harvie (2010) giải thích rằng, các doanh nghiệp nhỏ hiệu quả hơn do tính linh hoạt trong việc đa dạng hóa và điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình trong nền kinh tế chuyển đổi đang thay đổi nhanh chóng. Mặt khác, Alvarez và Crespi (2003) nhận thấy rằng, các công ty lớn hoạt động tốt hơn các công ty nhỏ vì các công ty nhỏ có thể phải đối mặt với những hạn chế sau: (i) khó khăn trong việc tiếp cận các khoản vay bên ngoài để đầu tư, (ii) thiếu các nguồn lực hiệu quả (ví dụ như vốn con người), (iii) thiếu quy mô kinh tế và (iv) thiếu hợp đồng chính thức với khách hàng và nhà cung cấp.
(2) Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp CNHT nói riêng. CNHT là các ngành sử dụng nhiều máy móc, do vậy đòi hỏi nhân lực phải có tay nghề để có thể sử dụng hiệu quả công suất của máy (Ohno, 2007). Thêm vào đó, do đặc điểm của các doanh nghiệp CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên yếu tố nhân lực càng có vai trò trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nhạn (2019), Luu và Nguyen (2014) khẳng định vai trò kỹ năng và kinh nghiệm của người lao động có ảnh hưởng thuận chiều đến sự phát triển CNHT tỉnh Bắc Ninh, Đồng Nai.
(3) Môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi
Yếu tố này bao gồm môi trường chính sách ổn định, có các chính sách ưu đãi, thu hẹp khoảng cách về nhận thức và thông tin giữa các nhà cung cấp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Đây là các yếu tố đảm bảo sự phát triển toàn diện của CNHT (Ohno, 2007). Huyền (2018) khẳng định, hệ thống chiến lược, chính sách và hệ thống thông tin là các yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp CNHT ngành điện tử Việt Nam. Kết nối thông tin và chính sách thuế cũng có tác động thuận chiều đối với sự phát triển CNHT một số tỉnh như Bắc Ninh, Đồng Nai (Nhạn, 2019; Luu và Nguyen, 2014).
(4) Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp CNHT nội địa
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua 3 yếu tố quan trọng: chất lượng, giá cả và giao hàng. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được thể hiện ở năng suất, hiệu quả của doanh nghiệp (Ohno, 2007), là yếu tố tác động đến sự phát triển của CNHT. Thành và Trang (2020) cho thấy, hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp CNHT hỗ trợ nội địa ngày càng giảm và hiệu quả kỹ thuật của nhiều tiểu ngành thấp hơn doanh nghiệp FDI, cho thấy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa có dấu hiệu suy giảm, đối mặt nhiều áp lực khi cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI.
(5) Mối liên kết giữa các doanh nghiệp CNHT nội địa và doanh nghiệp FDI
Mối liên kết này có vai trò quan trọng, không chỉ đem đến một lượng cầu lớn cho các doanh nghiệp CNHT nội địa, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nội địa. Ohno (2007) chỉ ra việc thu hẹp khoảng cách về thông tin và nhận thức đối của các doanh nghiệp CNHT và doanh nghiệp lắp ráp FDI là một trong các yếu tố góp phần thúc đẩy phát triển CNHT.
Mô hình nghiên cứu
Theo các nghiên cứu lý thuyết truyền thống, thì mô hình sản xuất có thể được mô tả như sau:
(1)
Trong đó, SLi là sản lượng của doanh nghiệp i tương ứng; Xi là vector các biến giải thích được sử dụng trong mô hình; vt là sai số ngẫu nhiên của đường biên (noise effect); ut là sai số không âm, phản ánh phi hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp (inefficiency effect).
Với các giả định:
- vt có phân phối chuẩn ~ iidN (0, σv2)
- ut phân phối chuẩn cụt ~ iidN+(µ, σu2)
- v phân phối độc lập với u
- u, v không có sự tương quan với X
Sau khi ước lượng phương trình, hiệu quả kỹ thuật (TE) được xác định như sau:
(2)
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng phương pháp biên ngẫu nhiên (SFA) vì những ưu điểm của nó để xem xét tác động của 2 nhóm yếu tố đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp CNHT: i) các yếu tố nội tại như chất lượng nguồn nhân lực, cường độ vốn, quy mô doanh nghiệp…; ii) các yếu tố bên ngoài như tác động của các doanh nghiệp FDI trong cùng ngành, tác động ngược của FDI, nhu cầu trong nước của ngành, môi trường thể chế... Các phân tích cũng được xem xét trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi số sau đại dịch Covid-19 bằng việc chia mẫu thành hai mẫu phụ: trước và sau khi có chuyển đổi số mạnh mẽ trong nền kinh tế Việt Nam.
Với cách tiếp cận SFA, hàm sản xuất thường có hai dạng: dạng hàm Cobb-Douglas hoặc dạng hàm Translog để ước tính hiệu quả kỹ thuật (TE).
Hàm Cobb-Douglas có dạng:
Hàm Translog có dạng:
Bảng 1 thể hiện kết quả kiểm định lựa chọn hàm sản xuất phù hợp, là mô hình Cobb-Douglas hay mô hình Translog để ước tính hiệu quả kỹ thuật (TE), cũng như kiểm định TE có tồn tại hay không.
Bảng 1: Kết quả kiểm định chọn dạng hàm sản xuất
|
Biến số |
Cobb-Douglas |
Translog |
|
log(V) |
0,9800*** |
-0,0236*** |
|
(0,0012) |
(0,0075) |
|
|
log(LD) |
0,0166*** |
1,5359*** |
|
(0,0048) |
(0,0168) |
|
|
t |
|
-0,1208*** |
|
(0,0145) |
||
|
log(V)2 |
|
0,0119*** |
|
(0,0004) |
||
|
log(LD)2 |
|
-0,0271*** |
|
(0,0019) |
||
|
t2 |
|
0,0227*** |
|
(0,0017) |
||
|
log(V) * log(LD) |
|
-0,0180*** |
|
(0,0012) |
||
|
t * log(V) |
|
0,0715*** |
|
(0,0014) |
||
|
t * log(LD) |
|
-0,1282*** |
|
(0,0025) |
||
|
C |
1,4785*** |
5,0913*** |
|
(0,0732) |
(0,0530) |
|
|
LR Test |
||
|
Hàm |
Log Likelihood |
P-value |
|
Cobb-Douglas |
-136800 |
|
|
Translog |
-123341 |
2,2e-16*** |
Ghi chú: *, ** và *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1% tương ứng. Các giá trị trong ngoặc đơn là sai số chuẩn.
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Trong mô hình Cobb-Douglas, các biến lao động, vốn và chi phí đều có tác động tích cực đến sản lượng ở mức ý nghĩa 1%. Trong khi đó, trong mô hình Translog, các biến chi phí có tác động tiêu cực đến sản lượng ở mức ý nghĩa 1%. Ngoài ra, mô hình Translog có chỉ số Log Likelihood cao hơn. Giá trị p rất nhỏ (p < 2,2e-16) cho thấy mô hình Translog có ý nghĩa thống kê tốt hơn. Do đó, mô hình nghiên cứu là mô hình hàm sản xuất Translog được chọn để ước tính TE. Mô hình nghiên cứu của nhóm tác giả được định nghĩa như sau:
Trong đó, bao gồm các biến là các nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kỹ thuật;
là sai số của mô hình phi hiệu quả, giả định tuân theo phân phối chuẩn cụt.
gồm 2 nhóm yếu tố tác động: nhóm yếu tố nội tại doanh nghiệp và nhóm yếu tố ngoại sinh, được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2: Các biến số trong mô hình
|
Tên biến |
Nội dung của biến số |
|
Các yếu tố nội tại doanh nghiệp: |
|
|
lnSize |
Quy mô công ty, đo lường bằng logarithm tự nhiên của số lượng người lao động |
|
lnHum |
Chất lượng nguồn nhân lực, đo lường bằng logarithm tự nhiên của chi phí trung bình cho một lao động của doanh nghiệp |
|
lnDC |
Cường độ vốn, đo lường bằng logarithm tự nhiên của giá trị tài sản trung bình trên một lao động của doanh nghiệp |
|
State |
Biến giả, nhận giá trị = 1 nếu doanh nghiệp có mối quan hệ gần với Nhà nước và ngược lại |
|
Region |
Biến giả thể hiện địa phương nơi công ty hoạt động, nhận giá trị từ 1 đến 6 (1. Vùng đồng bằng sông Hồng; 2. Vùng núi và trung du phía Bắc; 3. Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; 4. Khu vực Tây Nguyên; 5. Khu vực Đông Nam Bộ; 6. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long) |
|
Supind |
Biến giả, nhận giá trị từ 1 đến 6, thể hiện hiệu ứng cố định theo 6 tiểu ngành của CNHT: 1. CNHT dệt may; 2. CNHT da giày; 3. CNHT linh kiện điện tử; 4. CNHT sản xuất và lắp ráp ô tô; 5. CNHT sản xuất cơ khí; 6. CNHT công nghệ cao |
|
Các yếu tố ngoại sinh: |
|
|
BSpill_ratio |
Cầu nội địa đối với ngành i, cho biết tác động của toàn bộ doanh nghiệp thượng nguồn sử dụng đầu vào là sản phẩm của ngành j, được đo lường theo công thức sau: |
|
HFSpill |
Tác động của các doanh nghiệp FDI cùng ngành, được đo lường theo công thức sau:
|
|
BFSpill |
Tác động của các doanh nghiệp FDI thượng ngành cho biết tác động của các doanh nghiệp FDI ở các ngành sử dụng đầu vào là các sản phẩm của các doanh nghiệp ngành CNHT, thể hiện tác động lan tỏa của các công ty FDI thượng nguồn, được xác định bằng công thức:
|
|
Competition |
Để phản ánh môi trường thể chế, nhóm tác giả sử dụng chỉ số Cạnh tranh bình đẳng, trích từ Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). |
|
Informal |
Biến này là một chỉ số nữa thể hiện môi trường thể chế, phản ánh mức độ tham nhũng, là chỉ số thành phần “phi chính thức”, được trích xuất từ PCI. |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu này là tập dữ liệu bảng được kết nối từ dữ liệu của các cuộc điều tra doanh nghiệp sau: Tổng điều tra kinh tế năm 2014-2022 và Tổng điều tra doanh nghiệp (thực hiện bởi Tổng cục Thống kê) tập trung vào nhóm doanh nghiệp CNHT; Báo cáo chỉ số thương mại điện tử của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM); Báo cáo PCI (thực hiện bởi VCCI).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả hồi quy
Mô hình hồi quy với hiệu quả kỹ thuật (TE) là biến phụ thuộc và các yếu tố quyết định là các biến độc lập được ước lượng theo 3 phương pháp (Pooled-OLS, Fixed Effect Model, Random effect Model), tương ứng với mẫu đầy đủ từ năm 2014-2022 và hai mẫu con. Năm 2020 được chọn làm mốc để chia thành hai mẫu con: trước và sau khi chuyển đổi số của nền kinh tế nhằm tìm ra tác động của chuyển đổi số trong nền kinh tế như một yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp này.
Bảng 3: Kết quả hồi quy
|
Biến |
Pooled OLS |
FEM |
REM |
||||
|
Hệ số tương quan |
p-value |
Hệ số tương quan |
p-value |
Hệ số tương quan |
p-value |
||
|
lnSize |
0,0042 |
0,000 |
0,0050 |
0,000 |
0,0022 |
0,000 |
|
|
lnHum |
0,0006 |
0,156 |
0,0292 |
0,000 |
0,0025 |
0,000 |
|
|
lnDC |
0,0026 |
0,000 |
0,0096 |
0,000 |
0,0022 |
0,000 |
|
|
Bspill_ratio |
2,0E-01 |
0,024 |
5,97E-01 |
0,000 |
3,50E-02 |
0,653 |
|
|
HFSpill |
0,0000 |
0,056 |
0,0000 |
0,050 |
0,0000 |
0,006 |
|
|
BFSpill |
1,61E-08 |
0,000 |
7,93E-09 |
0,000 |
1,70E-08 |
0,000 |
|
|
informal |
-5,01E-03 |
0,000 |
-2,68E-03 |
0,006 |
-5,48E-03 |
0,000 |
|
|
competition |
-0,0072 |
0,000 |
-0,0008 |
0,301 |
-0,0081 |
0,000 |
|
|
State |
1 |
-0,0031 |
0,007 |
0,0073 |
0,000 |
-0,0038 |
0,000 |
|
Region |
2 |
-0,0140 |
0,000 |
-0,0075 |
0,000 |
-0,0110 |
0,000 |
|
3 |
-0,0198 |
0,000 |
-0,0109 |
0,000 |
-0,0153 |
0,000 |
|
|
4 |
-0,0008 |
0,859 |
0,0015 |
0,734 |
0,0016 |
0,684 |
|
|
5 |
0,0148 |
0,000 |
0,0046 |
0,000 |
0,0141 |
0,000 |
|
|
6 |
-0,0011 |
0,593 |
0,0012 |
0,588 |
0,0031 |
0,105 |
|
|
Supind |
2 |
-0,0612 |
0,002 |
-0,1453 |
0,000 |
-0,0252 |
0,148 |
|
3 |
0,0270 |
0,007 |
0,0704 |
0,000 |
0,0088 |
0,317 |
|
|
4 |
0,0325 |
0,005 |
0,0799 |
0,000 |
0,0110 |
0,276 |
|
|
5 |
0,0144 |
0,000 |
0,0107 |
0,000 |
0,0124 |
0,000 |
|
|
6 |
0,0478 |
0,001 |
0,1048 |
0,000 |
0,0209 |
0,089 |
|
|
cons |
0,4309 |
0,000 |
0,0390 |
0,061 |
0,4857 |
0,000 |
|
|
Prob>F |
|
0,000 |
|
0,000 |
|
0,000 |
|
|
R-squared |
|
0,0380 |
|
0,0564 |
|
0,0187 |
|
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Trong cả 3 phương pháp ước lượng, các hệ số tương quan đều nhất quán về dấu của mối tương quan. Các kiểm định để lựa chọn mô hình phù hợp nhất cho biết, FEM là mô hình phù hợp nhất.
Như vậy, kết quả ước lượng theo phương pháp FEM của nhóm tác giả ở Bảng 3 cho thấy, Chất lượng nguồn nhân lực (lnHum) và Cường độ vốn (lnDC) đều có tác động dương đến TE với mức ý nghĩa 1%. Kết quả này tương đồng với phát hiện của Yang và cộng sự (2010), Chaffai và cộng sự (2012), Charoenrat và Harvie (2014), Cheruiyot (2017) và Kashiwagi và Iwasaki (2020) về ảnh hưởng của lao động lành nghề đến hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất của các doanh nghiệp. Hơn nữa, kết quả này ngụ ý tầm quan trọng của việc cải thiện kỹ năng của người lao động và đào tạo nguồn nhân lực, từ đó tăng hiệu quả sản xuất. Ngoài ra, chất lượng lao động càng cao, thì việc sử dụng công nghệ hiện có và áp dụng công nghệ mới càng hiệu quả, từ đó dẫn đến mức hiệu quả cao hơn (Sinani và cộng sự, 2008). Mối quan hệ tích cực cũng ngụ ý rằng, việc tăng cường độ đầu tư vốn vào lao động sẽ làm tăng hiệu quả kỹ thuật trong các doanh nghiệp CNHT của Việt Nam. Điều này phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số của nền kinh tế thế giới và Việt Nam, đòi hỏi người lao động phải nắm bắt và làm chủ việc sử dụng các công nghệ mới. Phát hiện này tương tự như nghiên cứu của Nguyen và cộng sự (2019), Jorge-Moreno và Carrasco (2015) về vai trò của cường độ đầu tư vốn vào lao động trên một lao động đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Quy mô doanh nghiệp (lnSize) có tác động tích cực đến TE của các doanh nghiệp CNHT tại Việt Nam ở mức ý nghĩa 1%. Điều này nghĩa là, các doanh nghiệp quy mô lớn có thể tận dụng được sức mạnh của tổ chức và các yêu cầu về công nghệ để đạt được mức sản xuất lớn hơn. Đồng thời, các doanh nghiệp quy mô lớn hơn có năng lực tài chính và trình độ quản lý hiện đại hơn, do đó có thể xử lý khó khăn tốt hơn, từ đó đạt được hiệu quả kỹ thuật cao hơn.
Đối với môi trường đầu tư, nhóm tác giả thấy rằng, vị trí của một doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp đó. TE của các doanh nghiệp CNHT ở khu vực Đông Nam Bộ của Việt Nam tốt hơn các doanh nghiệp ở khu vực Đồng bằng sông Hồng; nhưng vùng Đồng bằng sông Hồng cho hiệu suất tốt hơn so với vùng Trung du và miền núi phía Bắc (vùng số 2), cũng như vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (vùng số 3). Điều này được giải thích bởi thực tế là, khi so sánh giữa vùng núi và miền Trung của Việt Nam, đồng bằng có địa hình bằng phẳng và gần biển thuận lợi hơn cho các nhà máy vận chuyển vật liệu và sản phẩm, tiết kiệm nhiều chi phí hơn. Các ngành khác nhau thể hiện các mức TE khác nhau, tất cả đều ở mức ý nghĩa 1%. TE của ngành số (3), (4), (5), (6) tốt hơn ngành dệt may; TE của ngành da giày là tệ nhất, mặc dù dệt may cũng như da giày trước đây là hai ngành xuất khẩu chính của Việt Nam. Những điều này cũng cho thấy sự dịch chuyển trong cơ cấu ngành sản xuất tại Việt Nam để thích ứng với bối cảnh kinh tế mới trong kỷ nguyên của Cách mạng công nghiệp 4.0. Với tương quan âm của biến Phi chính thức, kết quả cho thấy môi trường đầu tư kém sẽ kìm hãm TE, trong khi có mối quan hệ với chính phủ có thể giúp doanh nghiệp hoạt động tốt hơn (biến “State” có tác động tích cực đến TE ở mức ý nghĩa 1%).
Hơn nữa, đối với các yếu tố môi trường ngoại sinh, nhóm tác giả thấy rằng, HFSpill không có tác động đến TE, trong khi BFSpill (hiệu ứng ngược FDI) và BSpill_ratio (nhu cầu trong nước của một ngành tác động đến tất cả các doanh nghiệp thượng nguồn sử dụng đầu vào là sản phẩm của ngành đó) đều cho thấy tác động tích cực đến TE ở mức ý nghĩa 1%. Điều này cho thấy rằng, khi nhu cầu trong nước đối với các sản phẩm CNHT tăng lên, các nhà sản xuất CNHT có thể tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu. Từ đó, có thể dẫn đến tăng năng suất và sử dụng tối ưu các dây chuyền sản xuất, do đó cải thiện hiệu quả kỹ thuật. Ngoài ra, nhu cầu tăng đối với các sản phẩm CNHT có thể dẫn đến cạnh tranh giữa các nhà sản xuất CNHT, vì vậy buộc các nhà sản xuất này phải cải thiện hiệu quả kỹ thuật để giảm chi phí sản xuất và cạnh tranh trên thị trường.
Ảnh hưởng của chuyển đổi số trong nền kinh tế đến hiệu quả hoạt động của ngành CNHT
Để xem xét tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến TE có khác nhau giữa trước và sau chuyển đổi số hay không, chúng tôi thực hiện hồi quy với hai mẫu con, lấy năm 2020 làm chuẩn để chia mẫu con vì năm 2020 được coi là thời điểm nền kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi đáng kể sau COVID-19 và thể hiện nhiều hoạt động chuyển đổi số. Ở cả hai mẫu phụ, các kiểm định cũng cho thấy kết quả ước lượng mô hình theo phương pháp ước lượng FEM là phù hợp nhất.
Kết quả của mẫu phụ đầu tiên (không có chuyển đổi số) gần như tương tự với kết quả của toàn mẫu. Tuy nhiên, mẫu phụ thứ hai (có chuyển đổi số mạnh mẽ) lại có một số bất ngờ. Cụ thể, quy mô doanh nghiệp vẫn có tác động tích cực đến TE của các doanh nghiệp CNHT tại Việt Nam ở mức ý nghĩa 1%, nhưng mạnh hơn trong bối cảnh số hóa với hệ số là 0,0163. Cường độ vốn cũng có tác động thúc đẩy mạnh hơn đến TE, trong khi nguồn nhân lực lại cho thấy mối quan hệ tiêu cực ở mức ý nghĩa 1%. Chuyển đổi số nền kinh tế có thể thúc đẩy đổi mới trong các nhà máy, họ sử dụng các công nghệ hiện đại hơn với mức độ tự động hóa cao hơn, kỹ năng và kiến thức của người lao động cũng tăng lên theo sự gia tăng của sự phát triển trí tuệ trong xã hội số hóa... là những lý do để có thể duy trì TE cao, trong khi giảm đầu tư vào chi phí trên mỗi nhân viên.
Khu vực Đông Nam Bộ tiếp tục giữ được thành tích tốt hơn các khu vực khác trong phát triển CNHT, trong khi Tây Nguyên mất đi thành tích tốt hơn so với khu vực Đồng bằng sông Hồng. Lý giải nằm ở chỗ, khu vực nào nhận được nhiều đầu tư của Chính phủ hơn, thì dễ tiếp cận hơn và dễ triển khai quá trình chuyển đổi số hơn. Biến “informal” không có ý nghĩa thống kê ở cả 2 mẫu con, trong khi biến “competition” trở nên có ý nghĩa thống kê. Trước năm 2020, sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty đã tác động tiêu cực đến TE; tuy nhiên, kể từ năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các chính sách cụ thể để giúp các doanh nghiệp trong ngành CNHT tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, cạnh tranh trở thành động lực để họ tự cải thiện, thể hiện tác động tích cực đến TE. Hơn nữa, các công ty dựa vào mối quan hệ với Nhà nước chậm đổi mới để theo kịp sự phát triển của chuyển đổi số, do đó hiệu suất của họ đi xuống, thể hiện qua mối quan hệ tiêu cực giữa biến “state” và TE.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết có giá trị về các yếu tố quyết định hiệu quả kỹ thuật trong ngành CNHT của Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế số hóa nhanh chóng. Các phát hiện nêu bật vai trò tích cực đáng kể của Chất lượng nguồn nhân lực, Cường độ vốn và Quy mô doanh nghiệp trong việc tăng cường hiệu quả kỹ thuật. Ngoài ra, ảnh hưởng của các yếu tố môi trường bên ngoài, chẳng hạn như hiệu ứng lan tỏa nhu cầu trong nước (BSpill-ratio) và liên kết ngược FDI (BFSpill), nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy kết nối giữa các ngành CNHT trong nước và các doanh nghiệp lắp ráp có vốn FDI. Quá trình chuyển đổi số của Việt Nam kể từ năm 2020 đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành CNHT, cho thấy rằng số hóa có thể khuếch đại hoặc thay đổi sự tác động. Nghiên cứu này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của vị trí địa lý, đặc điểm ngành, khả năng cạnh tranh và môi trường đầu tư cũng là những yếu tố quyết định đến hiệu quả kỹ thuật trong ngành CNHT. Những phát hiện này đưa ra những hàm ý có thể hành động được cho cả chiến lược cấp doanh nghiệp và chính sách của Chính phủ, ủng hộ một cách tiếp cận toàn diện để tăng cường hiệu quả kỹ thuật trong các ngành CNHT của Việt Nam. Bằng cách giải quyết các yếu tố này, Việt Nam có thể tận dụng thêm các cơ hội do nền kinh tế số hóa của mình mang lại, tăng cường khả năng cạnh tranh trong ngành và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững./.
Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài KHCN cấp bộ "Nghiên cứu các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành CNHT trong bối cảnh kinh tế số tại Việt Nam" - Mã số: B2023-KSA-08.
Tài liệu tham khảo
1. Alvarez, R. and G. Crespi (2003), Determinants of Technical Efficiency in Small Firms, Small Business Economics, 20(3), 233-244.
2. Amornkitvikai, Y., Harvie, C., Charoenrat, T. (2014), Estimating a Technical Inefficiency Effects Model for Thai Manufacturing and Exporting Enterprises (SMEs): A Stochastic Frontier (SFA) and Data Envelopment Analysis (DEA) Approach, InSITE 2014, 14, 363-390.
3. Chaffai, M., Kinda, T., Plane, P. (2012), Textile Manufacturing in Eight Developing Countries: Does Business Environment Matter for Firm Technical Efficiency?, Journal of Development Studies, 48(10), 1470–1488.
4. Charoenrat, T., Harvie, C. (2014), The efficiency of SMEs in Thai manufacturing: A stochastic frontier analysis, Economic Modelling, 43, 372–393.
5. Chapelle, K. and P, Plane. (2005), Productive Efficiency in the Ivorian Manufacturing Sector: An Exploratory Study Using a Data Envelopment Analysis Approach, The Developing Economies, Institute of Developing Economies, 43(4), 450-471.
6. Cheruiyot, K. J. (2017), Determinants of Technical Efficiency in Kenyan Manufacturing Sector: Technical Efficiency in Kenyan Manufacturing Sector, African Development Review, 29(1), 44–55.
7. Farrel, M.J. (1957), The measurement of productive efficiency, Journal of the Royal Statistical Society, Series A, 120(3), 253-290
8. H. T. Nguyen (2020), Factors affecting technical efficiency in small and medium enterprises in Vietnam, Journal of Asian Business and Economic Studies, 30(7), 43-65.
9. Huyền, V. T. (2018), Phát triển CNHT và tăng trưởng kinh tế: trường hợp ngành điện tử, Luận án tiến sỹ, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương.
10. Jorge-Moreno, J.de, O.R. Carrasco. (2015), Technical efficiency and its determinants factors in Spanish textiles industry (2002-2009), Journal of Economic Studies, 42(3), 346-335.
11. Kashiwagi, K., Iwasaki, E. (2020), Effect of agglomeration on technical efficiency of small and medium‐sized garment firms in Egypt, African Development Review, 32(1), 14–26.
12. Le, V., Harvie, C. (2010), Firm performance in Vietnam: Evidence from manufacturing small and medium enterprises, University of Wollongong.
13. Le, N. H., Diem, H. X (2020), From Industrial Policy to Economic and Social Upgrading in Vietnam, Singapore: FES.
14. Lundvall, K., Battese, G. E. (2000), Firm size, age and efficiency: Evidence from Kenyan manufacturing firms, Journal of Development Studies, 36(3), 146–163.
15. Luu, T. D., Nguyen, M. Q. (2014), Analyzing factors affecting the development of supporting industries in Vietnam: evidence from Dong Nai province, 12th IFEAMA 2014, Hanoi: NEU.
16. Nguyen, T.M., Q.H. Le, T.V.H.Tran (2019), Ownership, technology gap and technical efficiency of small and medium manufacturing firms in Vietnam: A stochastic meta frontier approach, Desicion Science Letter, 8(8), 225-232.
17. Nhạn, T. H. (2019), Nghiên cứu thống kê các nhân tố tác động các nhân tố đến sự phát triển CNHT - trường hợp tỉnh Bắc Ninh, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
18. Ohno, K. (2007), Building supporting industries in Vietnam, Vietnam Development Forum.
19. Thành, T.T, Trang, N.Q. (2021), Các yếu tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp CNHT nội địa và khuyến nghị trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, 293, 55-65.
20. Yang, Chih-Hai, Chen, Ku-Hsieh (2009), Are small firms less efficient?, Small Business Economics, 32, 375–395.
21. Yang, C.-H., Lin, C.-H., Ma, D. (2010), R&D, Human Capital Investment and Productivity: Firm-level Evidence from China’s Electronics Industry, China & World Economy, 18(5), 72–89.
|
Ngày nhận bài: 29/12/2024; Ngày phản biện: 24/01/2025; Ngày duyệt đăng: 17/02/2025 |

Bình luận