Ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý và tổ chức đến ý định công bố báo cáo phát triển bền vững: Bằng chứng thực nghiệm từ doanh nghiệp Việt Nam
ThS. Đỗ Thị Thanh Xuân
Trường Đại học Thủ Dầu Một
Email: xuandtt1@tdmu.edu.vn
Tóm tắt
Nhận thức xung đột và nhận thức tính bất định (tính không chắc chắn) là 2 yếu tố tâm lý và tổ chức quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển bền vững. Nghiên cứu này phân tích tác động của nhận thức xung đột - sự mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ngắn hạn và mục tiêu bền vững dài hạn - cùng với nhận thức tính bất định - sự không chắc chắn về các yếu tố pháp lý, thị trường và môi trường đến ý định công bố báo cáo phát triển bền vững của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Sử dụng phương pháp khảo sát định lượng với số lượng 380 doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau, nghiên cứu cho thấy, nhận thức xung đột có tác động tiêu cực đáng kể, trong khi nhận thức tính bất định có tác động kép, vừa là rào cản vừa là động lực tùy thuộc vào bối cảnh. Hệ thống quản trị môi trường đóng vai trò điều tiết, giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của 2 yếu tố này. Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở lý thuyết và thực tiễn để thúc đẩy thực hành phát triển bền vững tại Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh áp lực từ các hiệp định thương mại tự do và yêu cầu minh bạch ngày càng cao.
Từ khóa: Nhận thức xung đột, nhận thức bất định, phát triển bền vững, báo cáo phát triển bền vững, quản trị môi trường, Việt Nam
Summary
Conflict perception and uncertainty perception are two critical psychological and organizational factors influencing corporate decision-making, particularly in the field of sustainable development. This study examines the impact of conflict perception - the tension between short-term economic benefits and long-term sustainability goals - together with uncertainty perception - the unpredictability of legal, market, and environmental factors on the intention to disclose sustainability reports among enterprises in Viet Nam. Employing a quantitative survey of 380 firms across different industries, the study reveals that conflict perception has a significantly adverse effect, while uncertainty perception demonstrates dual effects, acting both as a barrier and as a driver depending on the context. Environmental management systems play a moderating role in mitigating the negative impacts of these two factors. The findings provide both theoretical and practical insights to foster sustainable development practices in Viet Nam, particularly in the context of increasing pressure from free trade agreements and rising demands for transparency.
Keywords: Conflict perception, uncertainty perception, sustainable development, sustainability reporting, environmental management, Viet Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển bền vững (PTBV) đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp toàn cầu trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và yêu cầu minh bạch từ các bên liên quan ngày càng gia tăng. Báo cáo PTBV, với vai trò là công cụ minh bạch hóa các hoạt động liên quan đến môi trường, xã hội và quản trị (ESG), không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín, mà còn đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và kỳ vọng của nhà đầu tư, khách hàng cũng như cơ quan quản lý (R. Hahn và Kühnen, 2013). Tuy nhiên, việc công bố báo cáo PTBV không chỉ phụ thuộc vào nguồn lực tài chính hay kỹ thuật, mà còn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố tâm lý và tổ chức, trong đó nhận thức xung đột và nhận thức tính bất định được xem là 2 yếu tố cốt lõi (Minh và cộng sự, 2022).
Tại Việt Nam, PTBV đang nhận được sự quan tâm ngày càng lớn từ cả Chính phủ và các tổ chức quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh đất nước tham gia các hiệp định thương mại tự do như CPTPP và EVFTA. Các hiệp định này không chỉ yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và lao động nghiêm ngặt, mà còn thúc đẩy sự minh bạch thông qua các báo cáo PTBV (Tran và Nguyen, 2023). Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) vẫn do dự trong việc công bố báo cáo PTBV do nhận thức về xung đột lợi ích và sự không chắc chắn về lợi ích dài hạn của các sáng kiến bền vững. Nghiên cứu này đặt mục tiêu phân tích tác động của nhận thức xung đột và nhận thức tính bất định đến ý định công bố báo cáo PTBV, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của hệ thống quản trị môi trường - một yếu tố tổ chức quan trọng giúp doanh nghiệp quản lý các rủi ro và thúc đẩy hành vi bền vững.
Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý thuyết và thực tiễn. Về lý thuyết, nghiên cứu mở rộng khung lý thuyết về hành vi tổ chức bằng cách tích hợp các yếu tố nhận thức tâm lý (xung đột và bất định) và tổ chức (quản trị môi trường), từ đó cung cấp một mô hình toàn diện hơn để giải thích ý định công bố báo cáo PTBV. Về thực tiễn, nghiên cứu cung cấp cơ sở để xây dựng các chính sách và chiến lược nhằm khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các thực hành PTBV, từ đó góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững quốc gia và khu vực. Ngoài ra, nghiên cứu cũng làm sáng tỏ các rào cản và động lực cụ thể trong bối cảnh Việt Nam, nơi các doanh nghiệp đang phải đối mặt với áp lực ngày càng lớn từ các tiêu chuẩn quốc tế và kỳ vọng của thị trường.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Nhận thức xung đột đề cập đến cách các doanh nghiệp nhận thức về mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ngắn hạn, như: tối đa hóa lợi nhuận, và mục tiêu bền vững dài hạn, như bảo vệ môi trường hoặc thực hiện trách nhiệm xã hội (T. Hahn và cộng sự, 2010). Ví dụ, một doanh nghiệp có thể lo ngại rằng việc đầu tư vào công nghệ xanh sẽ làm tăng chi phí sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nhận thức tính bất định liên quan đến sự không chắc chắn về các yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như sự thay đổi liên tục của các quy định pháp luật, biến động thị trường hoặc tác động không lường trước của các vấn đề môi trường như biến đổi khí hậu (Engau và Hoffmann, 2011b). Những yếu tố này đặc biệt quan trọng tại Việt Nam, nơi SMEs chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp và thường đối mặt với hạn chế về nguồn lực, thông tin và năng lực thích ứng (Minh và cộng sự, 2022). Delmas và Toffel (2008) có cùng nhận định như trên, đó là doanh nghiệp có nhiều cách phản ứng khác nhau với cùng một áp lực từ các bên liên quan, chủ yếu từ bên ngoài tổ chức.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành khảo sát doanh nghiệp tại Việt Nam, bao gồm các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ thuộc các ngành chính, như: sản xuất, dịch vụ, xây dựng và nông nghiệp. Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng để đảm bảo tính đại diện theo 3 tiêu chí: quy mô doanh nghiệp, ngành công nghiệp và khu vực địa lý (miền Bắc, miền Trung, miền Nam). Đối tượng khảo sát là các nhà quản lý cấp cao hoặc lãnh đạo doanh nghiệp - những người có vai trò quyết định trong việc xây dựng chiến lược PTBV. Việc lựa chọn đối tượng này đảm bảo rằng dữ liệu thu thập phản ánh chính xác quan điểm và ý định của những người ra quyết định trong doanh nghiệp.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với thiết kế khảo sát dựa trên bảng câu hỏi được xây dựng cẩn thận, dựa trên các thang đo đã được kiểm định trong các nghiên cứu quốc tế trước đây (Hair và cộng sự, 2010), tác giả vận dụng và xem xét phát triển các thang đo từ thang đo gốc thông qua các nghiên cứu trước đây. Bảng câu hỏi bao gồm 4 phần chính:
- Nhận thức xung đột: Đo lường mức độ nhận thức của doanh nghiệp về mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ngắn hạn và mục tiêu bền vững dài hạn. Phần này gồm 5 câu hỏi từ nghiên cứu của Hahn và cộng sự (T. Hahn và cộng sự, 2010). Các câu hỏi sử dụng thang đo Likert 5 điểm (1 = Hoàn toàn không đồng ý, 5 = Hoàn toàn đồng ý).
- Nhận thức tính bất định: Đánh giá mức độ không chắc chắn của doanh nghiệp về các yếu tố bên ngoài như quy định pháp luật, biến động thị trường và tác động môi trường. Phần này gồm 6 câu hỏi từ nghiên cứu của Milliken (Milliken, 1987), được phát triển trong nghiên cứu của Engau và cộng sự (Engau và Hoffmann, 2011a). Các câu hỏi cũng sử dụng thang đo Likert 5 điểm.
- Hệ thống quản trị môi trường: Đo lường mức độ hiệu quả của các chính sách, quy trình và công cụ quản trị môi trường trong doanh nghiệp. Phần này gồm 5 câu hỏi, ví dụ: “Doanh nghiệp có hệ thống giám sát tác động môi trường hiệu quả” hoặc “Chúng tôi có các quy trình rõ ràng để tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường”. Thang đo Likert 5 điểm được áp dụng.
- Ý định công bố báo cáo PTBV: Đo lường mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong việc công bố báo cáo PTBV trong tương lai gần. Phần này gồm 4 câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu của Ajzen (Ajzen, 1991) và được các nghiên cứu khác tiếp tục sử dụng như ứng dụng trong lĩnh vực báo cáo PTBV như nghiên cứu của Hahn và cộng sự (R. Hahn và Kühnen, 2013), nghiên cứu của Nguyen Thi Phuong và cộng sự (2024). Thang đo Likert 5 điểm được sử dụng.
Dữ liệu được thu thập từ tháng 5 đến tháng 10/2024 thông qua 2 phương thức chính: khảo sát trực tuyến (sử dụng Google Forms) và phỏng vấn trực tiếp tại các hội thảo doanh nghiệp được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh. Tổng cộng 400 khảo sát được gửi đi và sau khi loại bỏ các câu trả lời không hợp lệ (do thiếu thông tin hoặc trả lời không nhất quán), 380 khảo sát được giữ lại để phân tích. Tỷ lệ phản hồi hợp lệ đạt 95%, cho thấy mức độ tham gia tích cực từ các doanh nghiệp.
Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm SPSS 26 và AMOS 24. Độ tin cậy của các thang đo được kiểm tra bằng Cronbach’s Alpha, với ngưỡng chấp nhận tối thiểu là 0.7 (Hair và cộng sự, 2010). Tính hợp lệ của thang đo được đánh giá thông qua phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA), đảm bảo tính hợp lệ hội tụ và phân biệt. Mô hình phương trình cấu trúc (SEM) được sử dụng để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, cho phép đánh giá đồng thời các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giữa các biến (Nghiên cứu sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết, nhóm tác giả đề xuất các giả thuyết nghiên cứu như sau:
H1: Nhận thức xung đột có ảnh hưởng tiêu cực đến Ý định công bố báo cáo phát triển bền vững.
H2: Nhận thức bất định có ảnh hưởng tiêu cực đến Ý định công bố báo cáo phát triển bền vững.
H3: Hệ thống quản trị môi trường có ảnh hưởng tích cực đến Ý định công bố báo cáo phát triển bền vững.
H4: Hệ thống quản trị môi trường đóng vai trò điều tiết, làm giảm tác động tiêu cực của Nhận thức xung đột và Nhận thức bất định đến Ý định công bố báo cáo phát triển bền vững.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trước khi tiến hành phân tích SEM, dữ liệu được kiểm tra độ tin cậy và tính hợp lệ. Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha cho thấy tất cả các thang đo đều đạt giá trị từ 0.78 đến 0.92, vượt ngưỡng yêu cầu tối thiểu 0.7, đảm bảo độ tin cậy cao. Phân tích EFA cho thấy các yếu tố có giá trị tải nhân tố (factor loading) > 0.5, và phân tích CFA xác nhận tính hợp lệ hội tụ (AVE > 0.5) và tính hợp lệ phân biệt (các yếu tố không có tương quan quá cao).
Bảng 1: Đặc điểm mẫu khảo sát
|
Đặc điểm |
Tỷ lệ (%) |
|
Quy mô doanh nghiệp |
|
|
Nhỏ |
50.0 |
|
Vừa |
30.0 |
|
Lớn |
20.0 |
|
Ngành công nghiệp |
|
|
Sản xuất |
35.0 |
|
Dịch vụ |
30.0 |
|
Xây dựng |
20.0 |
|
Nông nghiệp |
15.0 |
|
Khu vực địa lý |
|
|
Miền Bắc |
40.0 |
|
Miền Trung |
20.0 |
|
Miền Nam |
40.0 |
|
Thâm niên hoạt động |
|
|
< 5 năm |
30.0 |
|
5-10 năm |
35.0 |
|
> 10 năm |
35.0 |
Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả
Mô hình SEM cho thấy các chỉ số phù hợp tốt: Chi-square/df = 2.03, CFI = 0.95, TLI = 0.94, RMSEA = 0.05, đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn. Kết quả kiểm định giả thuyết được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2: Kết quả kiểm định giả thuyết
|
Giả thuyết |
Quan hệ |
Hệ số β |
p-value |
Kết quả |
|
H1 |
Nhận thức xung đột → Ý định công bố |
-0.34 |
< 0.01 |
Chấp nhận |
|
H2 |
Nhận thức tính bất định → Ý định công bố |
-0.18 |
< 0.05 |
Chấp nhận |
|
H3 |
Quản trị môi trường → Ý định công bố |
0.42 |
< 0.001 |
Chấp nhận |
|
H4 |
Nhận thức xung đột → Quản trị môi trường → Ý định công bố |
0.25 |
< 0.05 |
Chấp nhận |
|
H4 |
Nhận thức bất định → Quản trị môi trường → Ý định công bố |
0.20 |
< 0.05 |
Chấp nhận |
Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả
Kết quả nghiên cứu cung cấp một bức tranh toàn diện về tác động của nhận thức xung đột và nhận thức bất định đến ý định công bố báo cáo PTBV của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Các bảng số liệu (Bảng 3 đến Bảng 6) minh họa rõ ràng các xu hướng, sự khác biệt giữa các nhóm doanh nghiệp và vai trò của hệ thống quản trị môi trường trong việc định hình hành vi bền vững.
Bảng 3: Mức độ trung bình của các biến
|
Biến |
Trung bình |
Độ lệch chuẩn |
|
Nhận thức xung đột |
3.35 |
0.78 |
|
Nhận thức bất định |
3.55 |
0.82 |
|
Tính hữu hiệu quản trị môi trường |
3.90 |
0.72 |
|
Ý định công bố báo cáo PTBV |
3.95 |
0.70 |
Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả
Bảng 4: Ý định công bố báo cáo PTBV và Nhận thức bất định theo quy mô doanh nghiệp
|
Quy mô doanh nghiệp |
Trung bình Ý định công bố |
Nhận thức bất định |
Độ lệch chuẩn (Ý định) |
|
Nhỏ |
3.70 |
3.75 |
0.74 |
|
Vừa |
4.05 |
3.55 |
0.68 |
|
Lớn |
4.30 |
3.25 |
0.62 |
Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả
Bảng 5: Nhận thức xung đột và Ý định công bố báo cáo PTBV theo ngành công nghiệp
|
Ngành công nghiệp |
Trung bình Ý định công bố |
Nhận thức xung đột |
Độ lệch chuẩn (Ý định) |
|
Sản xuất |
4.10 |
3.25 |
0.65 |
|
Dịch vụ |
3.95 |
3.40 |
0.70 |
|
Xây dựng |
3.85 |
3.50 |
0.72 |
|
Nông nghiệp |
3.90 |
3.35 |
0.71 |
Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả
Bảng 6: Ý định công bố báo cáo PTBV theo khu vực địa lý
|
Khu vực địa lý |
Trung bình Ý định công bố |
Độ lệch chuẩn |
|
Miền Bắc |
4.00 |
0.68 |
|
Miền Trung |
3.80 |
0.73 |
|
Miền Nam |
4.05 |
0.67 |
Nguồn: Phân tích của nhóm tác giả
Dựa trên Bảng 2, nhận thức xung đột có tác động tiêu cực đáng kể đến ý định công bố báo cáo PTBV (β = -0.34, p < 0.01). Bảng 3 cho thấy mức độ nhận thức xung đột trung bình là 3.35, phản ánh rằng nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn lo ngại rằng việc ưu tiên PTBV có thể làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận ngắn hạn. Bảng 5 tiếp tục củng cố điều này, với ngành xây dựng ghi nhận mức nhận thức xung đột cao nhất (3.50) và ý định công bố thấp nhất (3.85) trong số các ngành được khảo sát. Điều này có thể do đặc thù của ngành xây dựng, nơi các chi phí liên quan đến công nghệ xanh, vật liệu bền vững và tuân thủ các quy định môi trường thường rất cao (Adams và McNicholas, 2007). Ngược lại, ngành sản xuất có mức nhận thức xung đột thấp hơn (3.25) và ý định công bố cao hơn (4.10), có thể do áp lực từ chuỗi cung ứng toàn cầu và các tiêu chuẩn môi trường quốc tế như ISO 14001 (R. Hahn và Kühnen, 2013). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Hahn và cộng sự (2010), trong đó các doanh nghiệp nhận thức xung đột cao thường ít tham gia vào các sáng kiến bền vững do lo ngại về chi phí và lợi ích ngắn hạn.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là mức độ nhận thức xung đột không quá cao (3.35), cho thấy một số doanh nghiệp đã bắt đầu nhận ra rằng PTBV có thể mang lại lợi ích dài hạn, chẳng hạn như thu hút nhà đầu tư, nâng cao hình ảnh thương hiệu và cải thiện hiệu quả vận hành. Bảng 6 cho thấy các doanh nghiệp ở miền Nam có ý định công bố cao hơn (4.05) so với miền Trung (3.80), có thể do miền Nam là trung tâm kinh tế với nhiều doanh nghiệp lớn và áp lực từ thị trường quốc tế cao hơn. Điều này nhấn mạnh rằng, bối cảnh địa lý và mức độ hội nhập kinh tế có thể ảnh hưởng đến cách doanh nghiệp nhận thức về xung đột lợi ích.
Nhận thức bất định có tác động tiêu cực nhẹ hơn đến ý định công bố báo cáo PTBV (β = -0.18, p < 0.05). Bảng 3 chỉ ra mức độ nhận thức bất định trung bình là 3.55, cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đang đối mặt với sự không chắc chắn đáng kể liên quan đến các yếu tố như: sự thay đổi của quy định pháp luật, biến động thị trường và tác động của biến đổi khí hậu. Bảng 4 cho thấy các doanh nghiệp nhỏ có mức nhận thức bất định cao nhất (3.75) và ý định công bố thấp nhất (3.70), điều này có thể được giải thích bởi hạn chế về nguồn lực, thông tin và khả năng thích ứng với các thay đổi môi trường (Delmas và Toffel, 2008). Ngược lại, các doanh nghiệp lớn có mức nhận thức bất định thấp hơn (3.25) và ý định công bố cao hơn (4.30), nhờ vào khả năng tiếp cận thông tin tốt hơn, đội ngũ chuyên gia và nguồn lực tài chính dồi dào.
Bảng 6 cũng cho thấy sự khác biệt theo khu vực địa lý, với các doanh nghiệp ở miền Trung có ý định công bố thấp hơn (3.80) so với miền Bắc (4.00) và miền Nam (4.05). Điều này có thể liên quan đến việc miền Trung có ít doanh nghiệp lớn và ít tiếp cận với các cơ hội hội nhập quốc tế hơn, dẫn đến nhận thức bất định cao hơn về các yêu cầu PTBV. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Engau và Hoffmann (2009), trong đó tính bất định có thể vừa là rào cản, vừa là động lực cho các sáng kiến bền vững. Cụ thể, trong một số trường hợp, tính bất định có thể thúc đẩy các doanh nghiệp lớn đầu tư vào PTBV để giảm thiểu rủi ro dài hạn, trong khi với các SME, nó thường là một rào cản do thiếu năng lực quản lý rủi ro.
Hệ thống quản trị môi trường có tác động tích cực mạnh mẽ đến ý định công bố báo cáo PTBV (β = 0.42, p < 0.001). Bảng 3 cho thấy mức độ trung bình của biến này là 3.90, phản ánh rằng nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng các chính sách và quy trình quản trị môi trường tương đối hiệu quả, đặc biệt là trong các ngành chịu áp lực cao như sản xuất. Hệ thống này không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các cam kết bền vững, mà còn đóng vai trò điều tiết, làm giảm tác động tiêu cực của nhận thức xung đột (β = 0.25, p < 0.05) và nhận thức bất định (β = 0.20, p < 0.05).
Bảng 4 cho thấy các doanh nghiệp lớn có hệ thống quản trị môi trường hiệu quả hơn, điều này giải thích tại sao họ có ý định công bố báo cáo cao hơn (4.30) so với các doanh nghiệp nhỏ (3.70). Tương tự, Bảng 5 chỉ ra rằng, ngành sản xuất có ý định công bố cao nhất (4.10), có thể do ngành này thường xuyên phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt và có các hệ thống quản trị môi trường được đầu tư bài bản hơn. Ngược lại, ngành xây dựng có ý định công bố thấp hơn (3.85), có thể do các doanh nghiệp trong ngành này thường tập trung vào các dự án ngắn hạn và ít chú trọng đến việc xây dựng các hệ thống quản trị môi trường dài hạn.
Bảng 6 tiếp tục củng cố vai trò của hệ thống quản trị môi trường, với các doanh nghiệp ở miền Nam và miền Bắc có ý định công bố cao hơn, có thể do các khu vực này có nhiều doanh nghiệp lớn và các trung tâm công nghiệp với hệ thống quản trị môi trường phát triển hơn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Delmas và Toffel (2008), trong đó các doanh nghiệp có hệ thống quản trị môi trường mạnh mẽ thường có xu hướng tham gia tích cực hơn vào các hoạt động bền vững, bao gồm công bố báo cáo PTBV.
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nhiều nghiên cứu quốc tế, chẳng hạn như Hahn và Kühnen (2013), trong đó, các yếu tố tâm lý và tổ chức như xung đột và tính bất định được xác định là rào cản chính đối với các sáng kiến PTBV (R. Hahn và Kühnen, 2013). Tuy nhiên, tại Việt Nam, các SME và các ngành như xây dựng hoặc nông nghiệp đối mặt với những thách thức đặc thù, bao gồm hạn chế về nguồn lực, thiếu chuyên môn và nhận thức chưa đầy đủ về giá trị của PTBV (Adams và McNicholas, 2007). Kết quả tại Bảng 4, Bảng 5 và Bảng 6 nhấn mạnh sự khác biệt giữa các nhóm doanh nghiệp, cho thấy cần có các giải pháp tùy chỉnh để hỗ trợ các SMEs và các ngành ít chịu áp lực từ thị trường.
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Kết luận
Nghiên cứu này đã cung cấp một phân tích toàn diện về vai trò của nhận thức xung đột và nhận thức bất định trong việc định hình ý định công bố báo cáo PTBV của các doanh nghiệp tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu, được minh họa qua các bảng số liệu, cho thấy nhận thức xung đột là rào cản chính, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và các ngành như xây dựng, nơi chi phí đầu tư vào PTBV thường được xem là gánh nặng tài chính. Nhận thức tính bất định có tác động kép: là rào cản đối với các SME do hạn chế về nguồn lực và thông tin, nhưng lại có thể là động lực đối với các doanh nghiệp lớn, những nơi có khả năng quản lý rủi ro tốt hơn. Hệ thống quản trị môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực của cả hai yếu tố này, đồng thời thúc đẩy hành vi bền vững thông qua các chính sách và quy trình hiệu quả.
Nghiên cứu này không chỉ góp phần nâng cao nhận thức về PTBV tại Việt Nam mà còn đặt nền móng cho các sáng kiến nhằm thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Việc công bố báo cáo PTBV không chỉ là một trách nhiệm, mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế, thu hút đầu tư và xây dựng lòng tin với các bên liên quan. Bằng cách giải quyết các rào cản như nhận thức xung đột và tính bất định, đồng thời tận dụng các động lực như hệ thống quản trị môi trường, các doanh nghiệp Việt Nam có thể đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu, đồng thời đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững cho chính mình.
Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc vào năm 2030, nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch và có trách nhiệm. Các doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức quốc tế cần phối hợp chặt chẽ để tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ PTBV, từ đó không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần vào sự thịnh vượng xã hội và bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai.
Hàm ý chính sách
Về mặt lý thuyết, nghiên cứu mở rộng khung lý thuyết về hành vi tổ chức bằng cách tích hợp các yếu tố: nhận thức tâm lý (xung đột và tính bất định) và tổ chức (quản trị môi trường). Mô hình nghiên cứu không chỉ làm rõ các mối quan hệ trực tiếp giữa các biến, mà còn làm nổi bật vai trò điều tiết của hệ thống quản trị môi trường, từ đó cung cấp một khung lý thuyết toàn diện hơn để giải thích ý định công bố báo cáo PTBV. Kết quả nghiên cứu cũng bổ sung vào lý thuyết về hành vi tổ chức trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển, nơi các yếu tố như xung đột lợi ích và tính bất định thường có tác động mạnh hơn so với các nền kinh tế phát triển.
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị cụ thể để thúc đẩy thực hành PTBV tại Việt Nam:
Một là, đối với chính phủ: Chính phủ Việt Nam cần ban hành các chính sách khuyến khích công bố báo cáo PTBV, chẳng hạn như: ưu đãi thuế, hỗ trợ kỹ thuật hoặc các chương trình tài trợ dành riêng cho SMEs. Việc ổn định các quy định pháp luật về môi trường và cung cấp thông tin thị trường rõ ràng cũng là cần thiết để giảm nhận thức tính bất định. Ngoài ra, chính phủ có thể hợp tác với các tổ chức quốc tế để thiết lập các tiêu chuẩn PTBV quốc gia, giúp đồng bộ hóa và nâng cao chất lượng báo cáo.
Hai là, đối với doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần đầu tư vào việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo về giá trị chiến lược của PTBV, không chỉ như một trách nhiệm, mà còn là cơ hội để nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh. Các SMEs nên tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chương trình đào tạo, hợp tác với các doanh nghiệp lớn hoặc tham gia các sáng kiến của chính phủ và tổ chức quốc tế để xây dựng hệ thống quản trị môi trường hiệu quả. Ngoài ra, việc áp dụng các công nghệ quản lý hiện đại, như phần mềm giám sát tác động môi trường, có thể giúp giảm nhận thức tính bất định và tối ưu hóa chi phí.
Ba là, đối với các tổ chức quốc tế và đối tác: Các tổ chức như IFC, UNDP hoặc các hiệp hội doanh nghiệp quốc tế có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Việt Nam thông qua các chương trình đào tạo, chuyển giao công nghệ và chia sẻ kinh nghiệm về PTBV. Các sáng kiến như xây dựng các mô hình báo cáo PTBV mẫu hoặc cung cấp các công cụ quản lý rủi ro môi trường có thể giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là SMEs, vượt qua các rào cản ban đầu.
Trong thời gian tới, các nghiên cứu tiếp theo nên mở rộng phạm vi để xem xét tác động của các yếu tố bên ngoài, như: áp lực từ khách hàng, nhà đầu tư, hoặc các hiệp định thương mại tự do đến nhận thức xung đột và tính bất định. Ngoài ra, việc so sánh giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực ASEAN, như Thái Lan, Malaysia hoặc Indonesia, có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về các yếu tố văn hóa, kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến PTBV. Các nghiên cứu định tính, như phỏng vấn sâu với các lãnh đạo doanh nghiệp, cũng có thể giúp làm rõ các khía cạnh phức tạp của nhận thức xung đột và tính bất định.
Tài liệu tham khảo:
1. Adams, C. A. and McNicholas, P. (2007). Making a difference. Accounting, Auditing & Accountability Journal, 20(3), 382-402. https://doi.org/10.1108/09513570710748553.
2. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), 179-211. https://doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T.
3. Delmas, M. A. and Toffel, M. W. (2008). Organizational responses to environmental demands: opening the black box. Strategic Management Journal, 29(10), 1027-1055. https://doi.org/10.1002/smj.701.
4. Engau, C. and Hoffmann, V. H. (2011a). Corporate response strategies to regulatory uncertainty: evidence from uncertainty about post-Kyoto regulation. Policy Sciences, 44(1), 53-80. https://doi.org/10.1007/s11077-010-9116-0.
5. Engau, C. and Hoffmann, V. H. (2011b). Strategizing in an Unpredictable Climate: Exploring Corporate Strategies to Cope with Regulatory Uncertainty. Long Range Planning, 44(1), 42-63. https://doi.org/10.1016/j.lrp.2010.11.003.
6. Hahn, R. and Kühnen, M. (2013). Determinants of sustainability reporting: a review of results, trends, theory, and opportunities in an expanding field of research. Journal of Cleaner Production, 59, 5-21. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2013.07.005.
7. Hahn, T., Figge, F., Pinkse, J. and Preuss, L. (2010). Trade‐offs in corporate sustainability: you can’t have your cake and eat it. Business Strategy and the Environment, 19(4), 217-229. https://doi.org/10.1002/bse.674.
8. Hair, J. F., Black C., W., Barry, J. B., and Rolph, E. A. (2010). Multivariate Data Analysis (7th edition) (7th ed.). Person.
9. Milliken, F. J. (1987). Three Types of Perceived Uncertainty About the Environment: State, Effect, and Response Uncertainty. Academy of Management Review, 12(1), 133-143. https://doi.org/10.5465/amr.1987.4306502.
10. Minh, N., Khan, M., and Bensemann, J. (2022). Corporate social responsibility in Vietnam: Systematic review of research and future directions. Society and Business Review, 17(1), 92-119. https://doi.org/10.1108/SBR-09-2020-0114.
11. Thi Phuong Nguyen, D., Thi Huong Nguyen, L., Thi Mai Nguyen, A., and Le Thanh Phan, L. (2024). Factors affecting the readiness for ESG reporting in Vietnamese enterprises. Problems and Perspectives in Management, 22(3), 263-275. https://doi.org/10.21511/ppm.22(3).2024.21.
12. Tran, T. M. and Nguyen, A. V. (2023). Impact Of The Free Trade Agreement (FTA) on Agricultural Product Export Enterprises in Vietnam. Journal of Multidisciplinary Science: MIKAILALSYS, 1(3), 289-305. https://doi.org/10.58578/mikailalsys.v1i3.2065.
|
Ngày nhận bài: 24/7/2025; Ngày hoàn thành biên tập: 26/8/2025; Ngày duyệt đăng: 28/8/2025 |

Bình luận