Thực trạng chính sách phát triển logistics tại vùng Đông Nam Bộ(*)
NCS. Đặng Thị Ngân
Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh
PGS, TS. Nguyễn Hoàng Phương
Học viện Chính trị khu vực II
TS. Đinh Gia Huy
Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, logistics ngày càng trở thành một lĩnh vực quan trọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghiên cứu đánh giá thực trạng các chính sách phát triển logistics tại vùng Đông Nam Bộ, bao gồm các chính sách về hạ tầng, phát triển doanh nghiệp, nguồn nhân lực, liên kết vùng và hợp tác quốc tế. Qua những đánh giá toàn diện, nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát triển logistics vùng Đông Nam Bộ theo hướng bền vững và hiệu quả hơn trong tương lai.
Từ khóa: chính sách phát triển logistics, vùng Đông Nam Bộ
Summary
In the context of rapid globalization, logistics has increasingly become a crucial sector that contributes to enhancing national competitiveness and promoting economic development. This study evaluates the current status of logistics development policies in the Southeast region, including policies on infrastructure, enterprise development, human resources, regional linkage, and international cooperation. Based on a comprehensive assessment, the study provides recommendations to improve logistics development policies in the Southeast region toward greater sustainability and efficiency in the future.
Keywords: Logistics development policy, Southeast region
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại vùng Đông Nam Bộ - khu vực có vị trí chiến lược và đóng vai trò là trung tâm công nghiệp, xuất nhập khẩu của cả nước - việc phát triển logistics không chỉ là nhu cầu cấp thiết mà còn là động lực quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chính sách phát triển logistics tại vùng này còn tồn tại nhiều bất cập, phân tán và thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa các cấp, ngành và địa phương. Do đó, phân tích thực trạng các chính sách nhằm phát triển logistics của khu vực này là cần thiết để đề xuất các giải pháp phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chính sách phát triển logistics vùng Đông Nam Bộ trong thời gian tới.
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS TẠI VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
Chủ trương về phát triển logistics vùng Đông Nam Bộ
Những năm gần đây, Trung ương và các địa phương trong Vùng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, triển khai một số giải pháp nhằm đưa ngành logistics của vùng Đông Nam Bộ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế của khu vực. Các chủ trương liên kết phát triển vùng Đông Nam Bộ do Trung ương ban hành như Nghị quyết số 24-NQ/TW và Quyết định số 370/QĐ-TTg Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ của Thủ tướng Chính phủ là cơ sở quan trọng để triển khai các dự án mang tính kết nối quan trọng giữa các địa phương trong vùng, liên vùng và liên ngành; phát huy tối đa lợi thế so sánh về vị trí địa kinh tế của vùng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực logistics nói riêng của cả Vùng.
Chính sách phát triển hạ tầng logistics ở vùng Đông Nam Bộ
Chính sách phát triển hệ thống hạ tầng giao thông
Hạ tầng giao thông đường bộ: Chính phủ và các địa phương ở vùng Đông Nam Bộ đã chủ trương đầu tư nhiều dự án hạ tầng giao thông quan trọng mang tầm quốc gia và khu vực. Ưu tiên hàng chính là đầu tư mới hoặc nâng cấp các tuyến quốc lộ, đường cao tốc, đường vành đai nhằm gia tăng kết nối đồng bộ hạ tầng giao thông toàn khu vực. Dự kiến tổng nhu cầu đầu tư hạ tầng giao thông toàn Vùng là khoảng 738.500 tỷ đồng; trong đó khoảng 342.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025 và khoảng 396.500 tỷ đồng trong giai đoạn 2026-2030.
Cùng với việc thường xuyên triển khai nâng cấp hệ thống đường quốc lộ, Chính phủ và các địa phương trong Vùng chủ trương đẩy mạnh đầu tư hệ thống đường vành đai nhằm tăng cường kết nối Vùng như đường vành đai 3 giai đoạn một có chiều dài 76 km đi qua TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Long An. Theo quy hoạch, đường Vành đai 4 đi qua TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An và Bà Rịa - Vũng Tàu, tổng chiều dài gần 207 km được khái toán tổng mức đầu tư hơn 136.000 tỷ đồng sẽ là công trình giao thông có quy mô lớn nhất từ trước tới nay ở khu vực phía Nam.
Hạ tầng giao thông đường sắt: Thời gian qua, Chính phủ đã có chủ trương và tiến hành nâng cấp Tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua vùng Đông Nam Bộ với tổng chiều dài khoảng 110 km. Cùng với đó, việc triển khai đầu tư các dự án đường sắt đô thị như Bến Thành - Suối Tiên, Bến Thành - Tham Lương là những động lực quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của TP. Hồ Chí Minh trong thời gian tới…
Hạ tầng giao thông đường thuỷ nội địa: Trong những năm qua, Trung ương và các địa phương trong vùng đã chủ trương triển khai nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa kết nối nội Vùng, cũng như liên Vùng. Tiến hành cải tạo, nâng cao tĩnh không cầu trên các tuyến đường thủy, nâng cấp hành lang đường thủy Bắc - Nam và Đông - Tây kết nối cảng Cái Mép. Đầu tư nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải vào khu bến cảng container Cái Mép.
Hạ tầng cảng biển: Theo Quyết định số 804/QĐ-TTg ngày 8/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Bà Rịa - Vũng Tàu quy hoạch 69 dự án cảng biển, trong đó có 50 dự án cảng đang hoạt động với tổng công suất thiết kế 150 triệu tấn/năm. Tỉnh Đồng Nai đã lập quy hoạch 45 cảng biển; trong đó 18 cảng đã hoạt động, 7 cảng đã có chủ trương đầu tư và 20 cảng chưa có chủ trương đầu tư. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam, trong đó bổ sung Quy hoạch cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ với mục tiêu khai thác phần lớn là hàng trung chuyển quốc tế, tạo nên sự khác biệt lớn về phân khúc thị trường so với các cảng trên cả nước hiện nay.
Hạ tầng cảng hàng không: Nhằm nâng cao năng lực vận chuyển hàng không, Chính phủ chủ trương đầu tư hiện đại hóa Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, mở rộng nhà ga hành khách quốc tế T2; nâng tổng công suất khai thác của Cảng lên 30 triệu hành khách/năm. Đồng thời, tập trung đầu tư sân bay Long Thành, triển khai đầu tư nâng cấp Cảng hàng không Côn Đảo. Những giải pháp này nhằm cải thiện tình hình quá tải hiện tại và đẩy mạnh khả năng phục vụ của hạ tầng hàng không khu vực Đông Nam Bộ.
Chính sách phát triển hệ thống trung tâm logistics, cảng cạn, kho bãi
Trung tâm logistics: Ngày 3/7/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1012/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, phát triển các trung tâm logistics trở thành các trung tâm dịch vụ nòng cốt trong lưu thông và phân phối hàng hóa, phục vụ đắc lực cho sản xuất, tiêu dùng hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Hệ thống cảng cạn: Ngày 22/8/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 979/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu từng bước hình thành và phát triển hệ thống cảng cạn trên phạm vi cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, tăng năng lực thông qua hàng hóa của các cảng biển; tổ chức vận tải container một cách hợp lý nhằm giảm chi phí vận chuyển và thời gian lưu hàng tại cảng biển, đảm bảo an toàn hàng hóa; góp phần giảm ùn tắc giao thông và bảo vệ môi trường, đặc biệt ở các đô thị lớn và khu vực có cảng biển lớn. Đây là cơ sở pháp lý cho việc đầu tư phát triển cảng cạn của vùng Đông Nam Bộ hiện nay.
Hệ thống kho bãi: Ngày 16/6/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan, bổ sung các nội dung thúc đẩy phát triển hạ tầng logisitcs như quy định về kho ngoại quan, kho hàng không kéo dài, điều kiện về địa điểm tập kết, kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ở khu vực biên giới.
Chính sách phát triển hạ tầng công nghệ thông tin logistics
Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy kinh doanh thương mại điện tử, Bộ Công Thương giao Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số thực hiện nhiệm vụ triển khai Đề án xây dựng sàn thương mại điện tử hợp nhất các tỉnh, thành. Các địa phương trong vùng cũng xây dựng các kế hoạch thực hiện các giải pháp tổng thể phát triển hạ tầng thông tin, từ việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách về vốn, đầu tư, giải pháp công nghệ và mô hình kinh doanh phù hợp để thu hút đầu tư hạ tầng số, đến huy động nguồn lực xã hội trong việc xây dựng hạ tầng thông tin và truyền thông.
Chính sách liên kết vùng và hợp tác quốc tế
Chính sách liên kết vùng
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng loạt những chính sách. Điển hình như: Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 15/11/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW. Chương trình hành động nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu tại Nghị quyết số 24-NQ/TW nhằm khai thác, phát huy hiệu quả, tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, tạo nên sức mạnh nổi trội của cả vùng Đông Nam Bộ, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội cả nước.
Chính sách hợp tác quốc tế
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 - đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ của nước ta vào nền kinh tế toàn cầu. Đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ; ký kết 17 hiệp đinh thương mại tự do, gắn kết với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt trong khu vực và toàn cầu.
Một số chính sách khác
Chính sách phát triển logistics xanh
Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 đã đặt mục tiêu "xanh hoá" các ngành kinh tế, trong đó có phát triển logistics xanh gồm các trung tâm logistics xanh, cảng xanh... Để thực hiện Chiến lược này, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 882/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, trong đó, dịch vụ logistics là 1 trong 18 chủ đề trọng tâm của Kế hoạch.
Chính sách chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã nhấn mạnh chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, nhấn mạnh yêu cầu “Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại hình dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin, logistics và vận tải phân phối”.
Chính sách phát triển thương mại điện tử
Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021-2025 đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 về việc đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử hỗ trợ các ngành hàng xuất khẩu chủ lực là một trong những nội dung quan trọng. Tiếp theo Quyết định 1415/QĐ-TTg ngày 14/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án “Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030” khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng và phân phối hàng hóa toàn cầu, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; hỗ trợ doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trực tuyến là một giải pháp cốt lõi.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS TẠI VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
Về việc thực hiện chính sách phát triển hạ tầng logistics
Những năm qua, việc tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông có trọng tâm, trọng điểm ở vùng Đông Nam Bộ đã đạt được những kết quả tích cực. Kết cấu hạ tầng giao thông có bước tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng, nhiều công trình giao thông quy mô lớn, hiện đại đã được đưa vào khai thác góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tính đến hết năm 2021, vùng Đông Nam Bộ có 3 trung tâm logistics hạng I đã đi vào hoạt động. Các trung tâm logistics này có vị trí nằm gần hoặc có thể kết nối với cảng biển, cảng hàng không quốc tế, có công năng tích hợp đầy đủ, trọn gói các dịch vụ của một trung tâm logistics, quy mô diện tích từ 20 ha trở lên, bán kính phục vụ tối thiểu là trên 100km. Bên cạnh đó, 6 trung tâm logistics hạng II đã đi vào hoạt động nằm ở các trung tâm kinh tế, thị trường tiêu thụ lớn, các vùng sản xuất tập trung, gồm một số công năng chính, chủ yếu của một trung tâm logistics, quy mô diện tích từ 10ha trở lên, bán kính phục vụ tối thiểu là trên 50km. Ngoài ra, vùng Đông Nam Bộ có 3 trung tâm logistics chuyên dụng đã đi vào hoạt động là những trung tâm logistics gắn liền hoặc có đường giao thông thuận tiện kết nối trực tiếp đến các cảng hàng không, diện tích tối thiểu là 3ha, tập trung thực hiện các dịch vụ logistics đối với các mặt hàng công nghệ cao, hàng hóa dễ hư hỏng, hàng hóa có giá trị lớn.
Trong Vùng đã đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành nhiều Trung tâm điều hành thông minh (IOC - Intelligent Operation Center) được ví như "Bộ não điều hành số" không thể thiếu của các địa phương để thực hiện mục tiêu xây dựng chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số, nền kinh tế số, xã hội số.
Thực tế, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn chế trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin của Vùng. Các tỉnh, thành phố trong Vùng đã triển khai xây dựng trục liên thông kết nối phục vụ việc liên thông các ứng dụng trong lĩnh vực chính quyền điện tử, nhưng chưa có trục liên thông kết nối chung toàn Vùng. Hệ thống phân tích dữ liệu lớn (Big data) chưa triển khai đồng bộ. Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chưa được đẩy mạnh.
Về việc thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp và nguồn nhân lực logistics
Vùng Đông Nam Bộ đang có gần 15.000 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp logistics cả nước. Trong đó, tập trung chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh với hơn 11.000 doanh nghiệp, Bình Dương gần 1.700 doanh nghiệp và Đồng Nai hơn 1.200 doanh nghiệp. Đến nay, các doanh nghiệp logistics trong Vùng từng bước nâng cao năng lực và tham gia tích cực vào việc hỗ trợ sản xuất, lưu thông trong nước, xuất nhập khẩu hàng hóa; tham gia vào nhiều khâu trong chuỗi dịch vụ logistics, tiến dần đến những khâu có giá trị gia tăng cao. Đã xuất hiện một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong lĩnh vực logistics, ứng dụng công nghệ hiện đại, có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài như Công ty Tân Cảng Sài Gòn. Một số doanh nghiệp nội địa có quy mô lớn đã cung ứng dịch vụ logistics sang các nước Đông Nam Á. Hiện có khá nhiều doanh nghiệp đang nghiên cứu các thị trường tại châu Á, châu Phi để cung ứng dịch vụ logistics quốc tế.
Thời gian qua, việc phát triển nguồn nhân lực ngành logistic vùng Đông Nam Bộ đã đạt được những kết quả nhất định. Vùng là một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực của cả nước với 57 trường đại học và 316 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nhiều cơ sở đào tạo đã chính thức mở ngành, chuyên ngành đào tạo tích cực tuyển sinh chuyên ngành logistics. Đây là cơ sở thuận lợi để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, từng bước đáp ứng nhu cầu cấp thiết về nhân lực mà ngành logistics vùng Đông Nam Bộ đang phải đối diện.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực ngành logistics vùng Đông Nam Bộ đang là một vấn đề nan giải trong quá trình hội nhập và phát triển. Sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cũng là "điểm nghẽn" lớn kìm hãm sự phát triển của dịch vụ logistics của vùng thời gian qua. Không ít doanh nghiệp sau khi tuyển dụng được lao động ở lĩnh vực này phải tốn thời gian và kinh phí rất lớn để tiến hành đào tạo lại. Không những thế, thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về logistics còn hạn chế cả về nhân lực và trình độ do nhiều cán bộ chưa được đào tạo bài bản về logistics.
Về việc thực hiện chính sách liên kết vùng và hợp tác quốc tế
Chính sách liên kết vùng Đông Nam Bộ ngoài việc đang từng bước giải quyết hạn chế lớn nhất về hạ tầng giao thông còn tiến tới thúc đẩy phát triển các chính sách logistics của Vùng một cách đồng bộ và hợp lý; khai thác hiệu quả các nguồn lực dành cho phát triển logistics; tránh đầu tư chồng chéo gây lãng phí và sự cạnh tranh không cần thiết; chuyển dịch nguồn lao động có chất lượng giữa các địa phương, giảm các áp lực về đào tạo và việc làm.
Với vị trí địa lý thuận lợi và tốc độ tăng trưởng ổn định, thị trường logistics vùng Đông Nam Bộ đang trở thành lĩnh vực đầu tư hấp dẫn, thu hút các nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Các hình thức đầu tư có thể kể đến là thành lập doanh nghiệp hoặc trụ sở, chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam hay các thương vụ mua bán sáp nhập xảy ra với số lượng và quy mô ngày càng lớn.
KẾT LUẬN
Phát triển logistics là một yếu tố then chốt góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, đặc biệt tại vùng Đông Nam Bộ - khu vực có vai trò chiến lược trong mạng lưới kinh tế quốc gia và khu vực. Mặc dù đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng hệ thống chính sách vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về tính đồng bộ, hiệu lực thực thi và liên kết vùng. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển logistics theo hướng tích hợp, hiệu quả và thích ứng với xu thế chuyển đổi số, hội nhập kinh tế, qua đó tạo nền tảng vững chắc cho phát triển dịch vụ logistics hiện đại, góp phần đưa Đông Nam Bộ trở thành trung tâm logistics hàng đầu cả nước.
(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.
Tài liệu tham khảo:
1. BộChínhtrịNghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. BộCôngThương (2019-2024).Báo cáo logistics Việt Nam các năm, từ năm 2019 đến năm 2024.
3. Chính phủ (2022). Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 23/11/2022 Ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4. Đặng Đình Đào, Vũ Thị Minh Loan, Nguyễn Minh Ngọc, Đặng Thu Hương và Phạm Thị Minh Thảo (2011). Logistics: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
5. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22/2/2021 Sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
6. UBND TP. Hồ Chí Minh (2024). Kế hoạch số 5276/KH-UBND ngày 9/9/2024 về triển khai thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng logistics.
| Ngày nhận bài: 5/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 19/8/2025; Ngày duyệt đăng: 21/8/2025 |

Bình luận