Thực hành ESG tại Việt Nam
Nguyễn Thị Hạnh Nguyên
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội
Tóm tắt
Hiện nay, thế giới đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở nên trầm trọng. Thực hành ESG ở các doanh nghiệp trên toàn thế giới được xem như một trong những giải pháp quan trọng nhằm giảm thiểu tác động của con người đối với môi trường và phát triển kinh doanh bền vững. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế chung này. Bài viết phân tích thực trạng thực hành ESG tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, khi các doanh nghiệp thực hiện ESG, sản lượng có xu hướng gia tăng, chất lượng sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Từ khóa: Chuyển đổi xanh, ESG, ô nhiễm môi trường, phát triển bền vững
Summary
The world is currently facing increasingly severe environmental pollution. ESG practices in enterprises around the globe are considered one of the key solutions to mitigate human impacts on the environment and promote sustainable business development. Vietnamese enterprises are also aligning with this global trend. This article analyzes the current state of ESG practices in Vietnam. The results indicate that when businesses implement ESG, their output tends to increase, and product quality becomes more competitive.
Keywords: Green transition, ESG, environmental pollution, sustainable development
GIỚI THIỆU
Theo báo cáo Brundtland (1987) của Liên hợp quốc, “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai”. Báo cáo “Who cares wins” của Liên hợp quốc (2003), lần đầu tiên nhắc tới thuật ngữ ESG và đưa ra bộ tiêu chuẩn ESG bao gồm 3 trụ cột chính: Environmental (Môi trường) – Social (Xã hội) – Governance (Quản trị). Việc báo cáo thực hành ESG đang dần trở thành xu hướng của các doanh nghiệp trong tương lai.
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HÀNH ESG
ESG là cụm từ viết tắt từ E - Environmental (Môi trường); S - Social (Xã hội) và G - Governance (Quản trị doanh nghiệp). Thuật ngữ ESG được xuất hiện sớm nhất vào năm 2004 ở lĩnh vực tài chính khi Hiệp ước toàn cầu Liên hợp quốc đưa ra báo cáo “Who cares wins”, với mong muốn áp dụng môi trường, xã hội và quản trị vào các lĩnh vực phân tích, quản lý tài sản và môi giới chứng khoán; sau đó, dần dần phổ biến ở các lĩnh vực khác. Kocmanova (2014) đã định nghĩa, ESG là bộ tiêu chuẩn về hiệu quả hoạt động của môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp, làm khuôn khổ để đo lường hiệu quả hoạt động bền vững của một công ty trong Báo cáo bền vững.
Theo Souza Barbosa và cộng sự (2003), thực hành ESG đề cập đến việc tích hợp các yếu tố ESG vào hoạt động và quy trình ra quyết định của công ty. Theo Ting và cộng sự (2019) để ứng phó với các vấn đề phát triển bền vững ngày càng nghiêm trọng trong môi trường xã hội và thị trường tài chính, các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên toàn thế giới đã đưa ra các kế hoạch hành động phát triển bền vững như ESG để xây dựng một khuôn khổ phát triển bền vững và toàn diện của xã hội. Các công ty ngày càng nhận ra tầm quan trọng của việc áp dụng ác thực hành ESG để tăng cường ra giá trị dài hạn và giảm thiểu rủi ro (Ioannou và Serafeim, 2015). Nhiều nghiên cứu cho thấy việc công bố thực hành ESG làm tăng lòng tin của các bên liên quan từ đó nâng cao giá trị của công ty.
Tuy nhiên, hiện nay, công bố ESG hiện đang thiếu kết nối và còn tồn tại những xung đột. Hội đồng Chuẩn mực bền vững quốc tế (ISSB) đã ban hành chuẩn mực bền vững IFRS (2023). Các chuẩn mực này được thiết kế để cung cấp cho nhà đầu tư, các bên liên quan thông tin minh bạch, nhất quán và có thể so sánh, qua đó hỗ trợ họ hiểu rõ hơn về những rủi ro và cơ hội liên quan đến tính bền vững của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, trong khuôn khổ hỗ trợ kỹ thuật của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Dự án tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân Việt Nam (IPSC) do Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Chủ dự án đã phát triển bộ công cụ đánh giá mức độ thực hành kinh doanh bền vững theo khung đánh giá Môi trường – Xã hội - Quản trị. Bộ công cụ giúp các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể tự đánh giá mức độ thực hành kinh doanh bền vững theo các khung và mô hình khác nhau. Các tiêu chí được đưa vào Công cụ đánh giá ESG này ở mức độ cơ bản, phù hợp với mức độ phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu các dữ liệu thứ cấp nhằm tổng hợp các vấn đề về thực trạng thực hành ESG tại các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp với thực trạng. Trong đó, tài liệu chính được sử dụng trong bài viết là kết quả khảo sát của Báo cáo “Đánh giá mức độ thực hành kinh doanh bền vững của doanh nghiệp Việt Nam theo khung môi trường, xã hội, quản trị (ESG) 2024” được thực hiện bởi Cục Phát triển doanh nghiệp (AED), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), thông qua Dự án Tăng cường năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân Việt Nam (IPSC) do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ năm 2024; khảo sát được thực hiện trên 1.019 doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực và quy mô khác nhau trong khoảng thời gian từ tháng 5/2024 tới hết tháng 7/2024, phạm vi toàn quốc.
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH ESG TẠI VIỆT NAM
Báo cáo “Đánh giá mức độ thực hành kinh doanh bền vững của doanh nghiệp Việt Nam theo khung môi trường, xã hội, quản trị (ESG) 2024” đã cho thấy, 39% doanh nghiệp tham gia khảo sát chưa từng biết đến khái niệm ESG. Khảo sát cũng nhận ra mối liên hệ rõ ràng giữa quy mô doanh nghiệp và mức độ nhận thức về ESG, doanh nghiệp càng lớn thì khả năng tiếp cận thông tin và nguồn lực để triển khai hoạt động ESG càng cao. Tuy nhiên, khi xem xét về bản chất của ESG bao gồm các công tác liên quan đến môi trường, quản trị và xã hội không có sự chênh lệch quá lớn giữa các quy mô doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ đang có những bước đi đầu tiên trong việc áp dụng các tiêu chí ESG. 62% trong tổng số 1.019 doanh nghiệp tham gia chưa nắm rõ các quy định chính sách của Việt Nam liên quan đến ESG.
Ở trụ cột môi trường. Doanh nghiệp tham gia khảo sát được đánh giá qua năm câu hỏi thuộc năm chủ đề: chính sách, công bố thông tin, kiểm toán báo cáo, nhân sự và tập huấn. Các doanh nghiệp đạt điểm trung bình 52%, trong đó các doanh nghiệp lớn thực hành tốt nhất về mặt môi trường với điểm trung bình 66% và số điểm giảm dần theo quy mô từ doanh nghiệp vừa, nhỏ đến siêu nhỏ, đạt lần lượt 61%, 48% và 39%, mức độ quan tâm đến môi trường tỷ lệ thuận với quy mô doanh nghiệp. Với nhóm sản xuất, lĩnh vực Quản lý chất thải là lĩnh vực tiêu biểu với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này đạt điểm trung bình là 71%. So với các lĩnh vực trong nhóm, Xây dựng vẫn còn nhiều hạn chế khi các doanh nghiệp xây dựng chỉ đạt 45% tổng số điểm. Với nhóm lĩnh vực phi sản xuất, doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Công nghệ thông tin và truyền thông đang ở mức thấp nhất là 37% (Hình 1).
Hình 1: Điểm trung bình doanh nghiệp cho trụ cột môi trường cho lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất
![]() |
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, USAID (2024)
Ở trụ cột xã hội. Các doanh nghiệp tham gia khảo sát được đánh giá qua sáu câu hỏi khác nhau: chế độ phúc lợi cho người lao động, nhân sự phụ trách các vấn đề liên quan đến an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp, cũng như tập huấn cho người lao động về an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp chuyên môn và quyền lợi của mình. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng được đánh giá dựa trên việc tổ chức các hoạt động gắn kết cộng đồng nhằm mang lại tác động tốt đến địa phương hoạt động của doanh nghiệp; quy trình đảm bảo an toàn và thông tin sản phẩm, dịch vụ. Các doanh nghiệp tham gia khảo sát đạt điểm số trung bình là 68% cao nhất trong ba trụ cột. Các doanh nghiệp trong nhóm lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực năng lượng và quản lý chất thải đạt điểm trung bình 77%, lĩnh vực xây dựng ở mức thấp nhất là 63%. Trong nhóm lĩnh vực phi sản xuất, các doanh nghiệp thuộc ngành thương mại, dịch vụ và tư vấn đang ở mức thấp nhất 61% (Hình 2).
Hình 2: Điểm trung bình trụ doanh nghiệp cho trụ cột xã hội cho lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất
![]() |
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, USAID (2024)
Ở trụ cột Quản trị. Các doanh nghiệp tham gia khảo sát được đánh giá qua 6 chủ đề cho tất cả các mô hình công ty: Chính sách phát triển bền vững, quy trình theo dõi, đánh giá công tác quản trị doanh nghiệp và việc tuân thủ pháp luật về quản trị doanh nghiệp; Bộ quy tắc ứng xử/ đạo luật về quản trị doanh nghiệp; Bộ quy tắc ứng xử/đạo đức; Cơ chế tiếp nhận và giải quyết tố cáo, khiếu nại, ý kiến từ các bên liên quan về các hoạt động của doanh nghiệp; Báo cáo tài chính và báo cáo đánh giá liên quan đến trách nhiệm môi trường – xã hội và Bộ phận về chính sách phát triển, nhân sự, lương thưởng hay các đơn vị tương đương. Các doanh nghiệp tham gia khảo sát đạt điểm trung bình 63%. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng tiếp tục hạn chế trong việc thực hành ESG khi có số điểm trung bình thấp nhất trong nhóm lĩnh vực sản xuất, với điểm trung bình 58%. Tương tự, các doanh nghiệp thuộc Công nghệ thông và truyền thông đạt mức điểm thấp nhất 57% trong nhóm lĩnh vực phi sản xuất. Điều này cho thấy, rủi ro về thực hành ESG ở lĩnh vực Xây dựng và Công nghệ thông tin và truyên thông đang rất cao (Hình 3).
Hình 3: Điểm trung bình doanh nghiệp cho trụ cột Quản trị cho lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất
![]() |
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, USAID (2024)
GIẢI PHÁP
Dựa trên kết quả của Báo cáo Đánh giá mức độ thực hành kinh doanh bền vững của doanh nghiệp Việt Nam theo khung môi trường, xã hội, quản trị (ESG) được thực hiện năm 2024, hiện nay các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của ESG tuy nhiên còn gặp các rào cản khi thực hành ESG như: thiếu thông tin, thiếu các chương trình giới thiệu và đào tạo, chưa có chính sách cụ thể từ Chính Phủ về ESG. Để giải quyết những vấn đề này Chính Phủ nên xây dựng các chính sách phù hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hành ESG trên toàn quốc, đặc biệt là các chính sách cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ, siêu nhỏ và các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng.
Thứ nhất, Chính Phủ nên ban hành các chính sách cụ thể hướng dẫn thực hành ESG cho doanh nghiệp, tổ chức các buổi tập huấn dành cho nhà quản trị của các doanh nghiệp ở tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, nhóm doanh nghiệp mức độ thực hành ESG đang ở mức thấp nhất.
Thứ hai, kết quả khảo sát cho thấy doanh nghiệp có quy mô càng lớn, nguồn lực dồi dào tỉ lệ thực hành thành công ESG càng cao, và ngược lại các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ càng gặp nhiều khó khăn khi thực hành ESG. Chính Phủ nên cân nhắc về chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các khoản vay để thực hành ESG trong quá trình hoạt động, điều này sẽ giúp các doanh nghiệp không chỉ là doanh nghiệp quy mô lớn mà doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cũng có thể thuận lợi khi thực hành ESG.
Cuối cùng, Chính Phủ có thể cân nhắc giảm thuế hoặc miến thuế cho các doanh nghiệp cam kết thực hành ESG, điều này giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng và có động lực thực hành ESG.
KẾT LUẬN
Việt Nam đã có sự gia tăng đáng kể trong việc thực hành ESG nhờ vào những nỗ lực tích cực của Chính Phủ. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện ESG do thiếu hụt kiến thức và nguồn lực, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Tích hợp ESG vào hoạt động kinh doanh là hướng đi cần thiết để doanh nghiệp Việt Nam vừa nâng cao hình ảnh thương hiệu vừa xây dựng cơ cấu quản trị vững chắc, tối ưu hoá sử dụng tài nguyên và giảm thiểu rủi ro./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, USAID (2024). Báo cáo đánh giá mức độ thực hành kinh doanh bền vững của doanh nghiệp Việt Nam theo khung môi trường, xã hội, quản trị (ESG) năm 2024.
2. Kocmanová, A., and Šimberová, I. (2014). Determination of environmental, social and corporate governance indicators: framework in the measurement of sustainable performance, Journal of Business Economics and Management, 15(5), 1017-1033.
3. International Sustainability Standards Board (2022). ISSB describes the concept of sustainability and its articulation with financial value creation, and announces plans to advance work on natural ecosystems and just transition, retrieved from https://www.ifrs.org/news-and-events/news/2022/12/issb-describes-the-concept-of-sustainability/.
4. Ioannou, I., and Serafeim, G. (2015). The impact of corporate social responsibility on investment recommendations: Analysts' perceptions and shifting institutional logics: CSR and Investment Recommendations, Strategic Management Journal, 36(7), 1053-1081.
5. Ting-Ting Li, Kai Wang, Toshiyuki Sueyoshi, Derek D. Wang (2021). ESG: Research Progress and Future Prospects, Sustainability, 13(21), 11663, https://doi.org/10.3390/su132111663.
6. United Nation (2003). Who cares wins.
| Ngày nhận bài: 06/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 26/5/2025; Ngày duyệt đăng: 19/6/2025 |




Bình luận