TS. Lê Ngọc Đoan Trang

Giảng viên khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Cửu Long

TS. Đặng Ngọc Đại

Giảng viên khoa Quản trị, Đại học học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

TS. Nguyễn Minh Lầu

Giảng viên khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Cửu Long

Tóm tắt

Nghiên cứu đánh giá tác động của các chính sách quy hoạch và phát triển vùng đối với quá trình tăng trưởng của doanh nghiệp tư nhân tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Dựa trên phân tích hệ thống các văn bản quy hoạch, khung chính sách liên quan và dữ liệu doanh nghiệp trong giai đoạn 2022-2024, nghiên cứu nhận diện các yếu tố thúc đẩy cũng như cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Kết quả cho thấy, mặc dù vai trò của doanh nghiệp tư nhân ngày càng được ghi nhận trong định hướng phát triển vùng, nhưng những bất cập trong thực thi chính sách, hạn chế về hạ tầng và sự thiếu đồng bộ thể chế vẫn là rào cản lớn đối với tăng trưởng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chính sách và tạo lập môi trường thuận lợi hơn cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Từ khóa: Quy hoạch vùng, chính sách phát triển, doanh nghiệp tư nhân, Đồng bằng sông Cửu Long

Summary

The study evaluates the impact of regional planning and development policies on the growth of private enterprises in the Mekong Delta. Based on a systematic analysis of planning documents, related policy frameworks, and enterprise data from 2022-2024, the research identifies factors that both promote and hinder the development of the private economic sector. Results indicate that although the role of private enterprises is increasingly recognized in regional development strategies, policy implementation gaps, infrastructural limitations, and institutional inconsistencies remain significant barriers to growth. Accordingly, the study proposes recommendations to enhance policy effectiveness and create a more favorable environment for private sector development.

Keywords: Regional planning, development policy, private enterprises, Mekong Delta

GIỚI THIỆU

Kinh tế tư nhân được đánh giá là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo và tạo việc làm tại Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh phát triển vùng, vai trò của quy hoạch và chính sách phát triển vùng không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là yếu tố then chốt trong thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), với đặc thù địa lý và kinh tế riêng biệt, đang là vùng trọng điểm cần được hỗ trợ qua các chính sách và quy hoạch phù hợp nhằm bù đắp các hạn chế hiện hữu. Tuy nhiên, sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân tại đây vẫn còn bị hạn chế do khoảng cách lớn giữa quy hoạch và thực thi chính sách thực tế, cũng như các rào cản về môi trường kinh doanh, hạ tầng và nguồn lực. Bài viết tập trung phân tích tác động thiết thực của quy hoạch và chính sách phát triển vùng đến doanh nghiệp tư nhân tại ĐBSCL, đồng thời đánh giá sâu về những yếu tố thúc đẩy và cản trở sự phát triển doanh nghiệp. Điểm mới nổi bật của nghiên cứu này là sự kết hợp phân tích thực trạng khu vực ĐBSCL với góc nhìn về sự chênh lệch giữa quy hoạch và khả năng triển khai chính sách thực tế, qua đó đề xuất các giải pháp mang tính khả thi và phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ và bền vững trong tương lai. Đây là khía cạnh ít được chú trọng trong các nghiên cứu trước đây, giúp mang lại cái nhìn toàn diện và định hướng chiến lược phát triển hiệu quả cho vùng ĐBSCL.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Khái niệm về quy hoạch và chính sách phát triển vùng

Quy hoạch phát triển vùng là quá trình tổ chức không gian các hoạt động kinh tế - xã hội trên một lãnh thổ nhất định nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của vùng, đồng thời đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa các địa phương trong vùng. Theo Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 09/7/2006 về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, quy hoạch vùng bao gồm vùng kinh tế - xã hội và vùng kinh tế trọng điểm, được lập cho thời kỳ 10 năm, có tầm nhìn từ 15-20 năm.

Chính sách phát triển vùng là tập hợp các chủ trương, định hướng và giải pháp của Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm thiểu chênh lệch phát triển giữa các vùng, và tăng cường liên kết vùng. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII nhấn mạnh việc “thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng”.

Doanh nghiệp tư nhân và vai trò trong phát triển kinh tế vùng

Doanh nghiệp tư nhân là thành phần kinh tế quan trọng, đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh phát triển vùng, doanh nghiệp tư nhân có thể tận dụng các chính sách ưu đãi, cơ sở hạ tầng và liên kết vùng để mở rộng quy mô và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân phụ thuộc lớn vào môi trường thể chế, quy hoạch không gian kinh tế và khả năng tiếp cận nguồn lực.

Tác động của quy hoạch và chính sách vùng đến doanh nghiệp tư nhân

Nhiều nghiên cứu cho thấy, quy hoạch vùng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân bổ nguồn lực, thu hút đầu tư và định hướng phát triển ngành nghề tại địa phương. Việc quy hoạch hợp lý giúp doanh nghiệp tư nhân xác định vị trí chiến lược, tiếp cận thị trường và nguồn nhân lực hiệu quả hơn. Đồng thời, chính sách phát triển vùng như ưu đãi thuế, hỗ trợ hạ tầng và cơ chế liên kết vùng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân phát triển bền vững.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin thứ cấp từ các thống kê của Chính Phủ, Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các tài liệu quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2020-2024. Dữ liệu sau khi thu thập được, nghiên cứu tiến hành sử dụng phương pháp thống kê, phân tích và đánh giá để so sánh số liệu qua từng năm.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thực trạng doanh nghiệp tư nhân tại Đồng bằng sông Cửu Long

Bảng: Thống kê về thực trạng doanh nghiệp tư nhân

Chỉ tiêu

Năm 2022

Năm 2023

Năm 2024

Số lượng doanh nghiệp tư nhân

68.000

82.000

71.443

Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (%)

98

92

97,2

Lao động khu vực tư nhân (người)

476.000

1.250.000

536.000

Tỷ trọng đóng góp vào GRDP vùng (%)

35-40

45

12,2

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Tổng cục Thống kê (2023); VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (2022, 2023, 2024)

Số lượng doanh nghiệp tư nhân của ĐBSCL biến động mạnh, năm 2023 tăng 20,6% so với năm 2022, cho thấy có thể đã có chính sách hỗ trợ, phục hồi sau đại dịch hoặc môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Tuy nhiên, số lượng này lại giảm trở lại năm 2024 (giảm 12,9%), điều này phản ánh sự thiếu ổn định, có thể do khó khăn kinh tế, cạnh tranh, hoặc doanh nghiệp ngừng hoạt động. Sự biến động này cho thấy khu vực tư nhân tại ĐBSCL chưa phát triển bền vững, dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố bên ngoài. Ngoài ra, khi xét theo tỷ lệ doanh nghiệp trên 1.000 dân, ĐBSCL chỉ đạt 4,2 doanh nghiệp, thuộc nhóm thấp nhất trong sáu vùng kinh tế của cả nước, chỉ cao hơn Trung du và miền núi phía Bắc (3,2 doanh nghiệp/1.000 dân) (Trung Chánh, 2025).

Thêm vào đó, tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ luôn chiếm đa số, mặc dù tỷ lệ có giảm nhẹ năm 2023, tỷ lệ vẫn rất cao, cho thấy phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hạn chế về vốn, công nghệ và năng lực cạnh tranh. Năm 2024, tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tăng trở lại cho thấy chưa có chuyển dịch rõ rệt sang doanh nghiệp vừa và lớn. Điều này có thể thấy cơ cấu doanh nghiệp mất cân đối, do vậy ĐBSCL cần chính sách hỗ trợ để nâng cấp quy mô và chất lượng. Theo số liệu Báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL, bình quân mỗi doanh nghiệp ở ĐBSCL chỉ có khoảng 7,5 lao động, thấp hơn nhiều so với các vùng phát triển như Đông Nam Bộ (38,8 lao động/doanh nghiệp) hay Đồng bằng sông Hồng (27,7 lao động/doanh nghiệp). Điều này phản ánh quy mô sản xuất nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế và khả năng tạo việc làm còn thấp.

Về số lượng lao động khu vực tư nhân năm 2023 ghi nhận mức tăng đột biến, có thể do mở rộng sản xuất hoặc chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, năm 2024 lại giảm mạnh, cho thấy sự thiếu ổn định trong việc duy trì việc làm. Việc số lượng lao động tư nhân chưa ổn định, phản ánh tính dễ tổn thương của doanh nghiệp nhỏ trước biến động kinh tế.

Đóng góp của khu vực tư nhân vào GRDP vùng cũng có xu hướng biến động mạnh. Tỷ trọng này tăng từ khoảng 35%-40% (2022) lên 45% (2023), cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của khu vực tư nhân trong phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, năm 2024 ghi nhận mức giảm sâu xuống còn 12,2%, đặt ra câu hỏi về tính bền vững của sự phát triển và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong bối cảnh mới.

Những biến động trên cho thấy sự cần thiết của việc đánh giá lại chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định và đóng góp hiệu quả vào nền kinh tế vùng.

Thực trạng quy hoạch và chính sách phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Quy hoạch vùng

Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Chính phủ ban hành theo Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022. Mục tiêu chính của quy hoạch nhằm phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đồng thời tăng cường liên kết vùng và đầu tư phát triển hạ tầng logistics để nâng cao hiệu quả kết nối nội vùng và liên vùng.

Quy hoạch tập trung thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư tư nhân vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo và du lịch sinh thái nhằm phát triển bền vững và đa dạng hóa kinh tế đặc thù vùng sông nước. Các mục tiêu cụ thể bao gồm phát triển các trung tâm nông nghiệp công nghệ cao, hoàn thiện hệ thống thủy lợi và nâng cấp các cảng biển, cảng hàng không, cùng hạ tầng giao thông đa phương thức phù hợp với đặc điểm vùng (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2025).

Theo Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt ra tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân dự báo khoảng 6,5% mỗi năm trong giai đoạn 2021-2030, giá trị gia tăng kinh tế xanh và tuần hoàn kỳ vọng đạt tỷ trọng 20-25% GDP vùng, thể hiện sự chuyển đổi kinh tế theo hướng bền vững và thân thiện môi trường.

Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

Song song với quy hoạch vùng, các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được chú trọng nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong vùng. Nghị quyết số 13/NQ-CP năm 2020 đặt mục tiêu phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới cải thiện môi trường đầu tư và phát triển kinh tế xã hội khu vực (Chính phủ, 2020).

Bên cạnh đó, Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017 được thực thi qua nhiều chương trình hỗ trợ tài chính, đào tạo nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong vùng ĐBSCL (VCCI Cần Thơ, Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright, 2023). Các chính sách ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp, cụm công nghiệp cũng được áp dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn về thuế, đất đai và thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2025).

Tuy nhiên, khảo sát của VCCI Cần Thơ, Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (2023) cho thấy, 58% doanh nghiệp cho rằng các chính sách chưa rõ ràng và thiếu tính thực thi, trong khi 46% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về quy hoạch vùng, từ đó ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.

Những hạn chế này cho thấy cần tăng cường công tác truyền thông, nâng cao tính minh bạch và thực thi các chính sách hỗ trợ để tạo môi trường thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, qua đó khai thác tốt hơn nguồn lực tư nhân trong phát triển kinh tế vùng ĐBSCL.

Tác động của quy hoạch và chính sách đến doanh nghiệp tư nhân

Tác động tích cực

Hiện tại, việc quy hoạch và các chính sách phát triển cho vùng ĐBSCL đã có vai trò định hướng chiến lược trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư và mở rộng quy mô của khu vực doanh nghiệp tư nhân tại đây. Trên thực tế, các quy hoạch tổng thể đã giúp doanh nghiệp xác định được lĩnh vực ưu tiên, khu vực tiềm năng và định hướng phát triển dài hạn. Điều này đã thể hiện đặc biệt rõ nét tại các địa phương như Long An cũ (hiện tại là Tây Ninh) và Cần Thơ, nơi đây chính quyền đã đầu tư mạnh vào hạ tầng giao thông và logistics, qua đó cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh và khả năng kết nối vùng.

Ngoài ra, các chính sách thúc đẩy liên kết vùng đã góp phần hình thành chuỗi giá trị nông sản, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các mạng lưới sản xuất và phân phối liên tỉnh. Việc tăng cường hợp tác giữa các địa phương không chỉ nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực mà còn giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường và giảm thiểu rủi ro trong chuỗi cung ứng.

Tác động tiêu cực và hạn chế

- Thiếu sự đồng bộ giữa các chính sách: Quy hoạch phát triển ĐBSCL còn tồn tại hiện tượng chồng chéo và phân tán giữa các cấp địa phương với Trung ương, thiếu sự phối hợp hiệu quả. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong tiếp cận thông tin quy hoạch, dẫn đến rủi ro trong đầu tư và hoạt động kinh doanh.

- Hạn chế về hạ tầng cơ sở và dịch vụ hỗ trợ: Hạ tầng chưa đồng bộ, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa, tiếp tục là rào cản lớn đối với việc mở rộng quy mô sản xuất và phân phối. Sự thiếu đồng bộ giữa các hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng khiến các doanh nghiệp phải chịu chi phí vận chuyển cao và chủ yếu là vận chuyển đường bộ (chiếm khoảng 60%-70%), mà chưa khai thác được lợi thế vận tải thủy do năng lực hệ thống thủy nội địa còn hạn chế (Trần Thị Hoa Lý, 2024)

- Bất cập trong thực thi chính sách: Theo kết quả khảo sát của Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân, Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và Báo Điện tử VnExpress (2025) về thực trạng cung cấp/thực hiện thủ tục hành chính cho doanh nghiệp năm 2024 cho thấy, có đến 44,4% doanh nghiệp được khảo sát đánh giá là gặp khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục hành chính và đáp ứng quy định pháp luật. Trong đó, nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề là các doanh nghiệp ngoài nhà nước (chiếm đến 84,6%), trong đó đối tượng gặp trở ngại nhiều nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ với quy mô dưới 50 lao động.

- Khả năng tiếp cận vốn thấp: Đa phần các doanh nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên các doanh nghiệp này sẽ bị thiếu các điều kiện vay vốn cơ bản, hoặc chỉ số rủi ro cao dẫn đến khó tiếp cận vốn.

- Một hạn chế kế tiếp mà các doanh nghiệp phải đối mặt là trình độ nguồn lực hạn chế, vì theo báo cáo thường niên của VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (FSPPM) (2020) cho thấy, ĐBSCL có trình độ dân trí còn thấp, chất lượng lao động không cao, lao động đã qua đào tạo có xu hướng di cư lên khu vực Đông Nam Bộ để tìm kiếm việc làm. Do chất lượng nguồn nhân lực còn thấp nên vấn đề hiểu biết về công nghệ, internet, việc bảo mật dữ liệu, thông tin về tiêu chuẩn kỹ thuật số, gặp nhiều khó khăn.

KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Một là, tăng cường đồng bộ hóa giữa các chính sách và quy hoạch phát triển: Cần có một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cấp chính quyền và các ngành liên quan để đảm bảo sự đồng bộ trong các chính sách phát triển vùng. Các quy hoạch phát triển phải được thực hiện đồng thời và có sự tương thích giữa các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, hạ tầng và thị trường lao động. Đặc biệt, việc xây dựng các chiến lược phát triển khu vực phải có sự tham gia và ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp tư nhân, nhằm đảm bảo phù hợp với thực tế và nhu cầu của thị trường.

Hai là, cải thiện và đồng bộ hóa hạ tầng cơ sở và dịch vụ hỗ trợ: Đầu tư mạnh mẽ vào việc nâng cấp và phát triển hạ tầng cơ sở, đặc biệt là giao thông, điện, nước, và viễn thông, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Chính phủ nên tạo ra các chính sách ưu đãi và cơ chế đặc biệt để phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, và các khu vực có tiềm năng, nhằm thu hút và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân phát triển. Tăng cường đầu tư vào mạng lưới giao thông đường bộ và đường thủy tại ĐBSCL, đặc biệt là những tuyến đường trọng yếu nối các khu công nghiệp với các trung tâm tiêu thụ lớn, nhằm giảm chi phí vận chuyển cho doanh nghiệp.

Ba là, đơn giản hóa thủ tục hành chính và cải cách pháp lý: Tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, minh bạch và dễ tiếp cận hơn cho các doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt, cần có cơ chế giám sát và kiểm tra việc thực thi các chính sách, giúp các doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng về thủ tục hành chính và dễ dàng hơn trong việc tuân thủ quy định pháp lý.

Bốn là, cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân: Tăng cường các chương trình tín dụng ưu đãi, đặc biệt là cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) tại ĐBSCL. Chính phủ nên phối hợp với các ngân hàng thương mại để phát triển các sản phẩm tài chính phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp tư nhân khu vực này, đặc biệt là các chương trình hỗ trợ về vốn vay, lãi suất ưu đãi và giảm thiểu các yêu cầu tài sản bảo đảm. Xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại khu vực ĐBSCL, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất thấp và các điều kiện vay đơn giản hơn.

Năm là, nâng cao trình độ nguồn lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân: Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp cần triển khai các chương trình đào tạo, tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là trong các lĩnh vực quản lý tài chính, marketing, và công nghệ. Các chương trình này giúp các doanh nghiệp tư nhân nâng cao năng lực quản trị và cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tổ chức các khóa đào tạo miễn phí hoặc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất sạch, công nghệ cao, và khởi nghiệp, đồng thời kết nối doanh nghiệp với các chuyên gia tư vấn trong nước và quốc tế.

Sáu là, tăng cường các cơ chế hỗ trợ và khuyến khích đổi mới sáng tạo: Chính phủ cần triển khai các cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, giúp các doanh nghiệp tư nhân có thể đổi mới sản phẩm và mở rộng hoạt động kinh doanh. Các chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo phải được gắn với các ưu đãi về thuế, vốn, và đầu tư nghiên cứu phát triển (R&D). Tạo ra các quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các chương trình tài trợ dành riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp tại ĐBSCL, kết hợp với các tổ chức nghiên cứu và trường đại học để thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển công nghệ mới.

Bảy là, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội và doanh nghiệp vào chính sách: Tạo ra các kênh đối thoại giữa chính quyền, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội để cùng thảo luận và giải quyết các vấn đề liên quan đến chính sách và quy hoạch. Điều này sẽ giúp các chính sách trở nên thực tế và phù hợp hơn với nhu cầu của doanh nghiệp.

Tám là, xây dựng môi trường pháp lý ổn định và minh bạch: Chính phủ cần xây dựng và duy trì một môi trường pháp lý ổn định, dễ dự đoán và minh bạch. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư và phát triển mà còn tạo ra sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp trong khu vực.

KẾT LUẬN

Quy hoạch và chính sách phát triển vùng có ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân tại ĐBSCL. Tuy đã có những chuyển biến tích cực, nhưng khoảng cách giữa định hướng và thực thi vẫn là rào cản lớn. Việc cải thiện thể chế, hạ tầng và cơ chế hỗ trợ sẽ là chìa khóa để khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của vùng.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân, Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ, Báo Điện tử VnExpress (2025). Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng cung cấp, thực hiện thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2025). Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng ĐBSCL 2021-2030.

3. Chính phủ (2006). Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ quy định về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.

4. Chính phủ Việt Nam. (2008). Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.

5. Chính phủ (2020). Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

6. Porter, M. E. (1990). The Competitive Advantage of Nations. Free Press.

7. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022phê duyệt Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

8. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám thống kê 2023. Nxb Thống kê.

9. Trần Thị Hoa Lý (2024, tháng 8/23). Giải pháp phát triển logistics Vùng đồng bằng sông Cửu Long. https://tapchicongthuong.vn/giai-phap-phat-trien-logistics-vung-dong-bang-song-cuu-long-125688.htm

10. Trung Chánh (2025). Để khu vực tư nhân Đồng bằng sông Cửu Long lớn về lượng, mạnh về chất. https://thesaigontimes.vn/de-khu-vuc-tu-nhan-dbscl-lon-ve-luong-manh-ve-chat/#:~:text=(KTSG%20Online)%20%E2%80%93%20Khu%20v%E1%BB%B1c,nh%C3%A2n%20l%E1%BB%9Bn%20c%E1%BB%A7a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam?

11. VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (2020). Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng Sông Cửu Long: Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển bền vững.

12. VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (2022). Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm 2021.

13. VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright. (2023). Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm 2022.

14. VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (2024). Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm 2023.

15. VCCI ĐBSCL, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright. (2025). Báo cáo Kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long - AMDER 2024: Huy động đầu tư cho phát triển bền vững.

Ngày nhận bài: 22/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 25/8/2025; Ngày duyệt đăng: 29/8/2025