Tác động của khả năng hấp thụ tri thức đối với sự đổi mới: Vai trò trung gian của học hỏi tổ chức
Lê Hoàng Quang Dinh
Khoa Du Lịch – Trường Đại học Văn Hiến
Email: dinhlhq@vhu.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm xem xét tác động của khả năng hấp thụ tri thức đến sự đổi mới, thông qua yếu tố trung gian là học hỏi tổ chức. Nghiên cứu sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính để kiểm định các giả thuyết với dữ liệu thu thập từ 238 cán bộ quản lý tại các doanh nghiệp du lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khả năng hấp thụ tri thức có ảnh hưởng tích cực đến học hỏi tổ chức và sự đổi mới. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, học hỏi tổ chức đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa khả năng hấp thụ tri thức và sự đổi mới. Dựa trên kết quả này, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý quản trị nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường khả năng hấp thụ tri thức, từ đó nâng cao hiệu quả đổi mới của doanh nghiệp.
Từ khóa: Khả năng hấp thụ tri thức, sự đổi mới, học hỏi tổ chức
Summary
This study examines the impact of absorptive capacity on innovation, with organizational learning as a mediating factor. The research employs a structural equation modeling approach to test the hypotheses using data collected from 238 managerial staff at tourism enterprises in Ho Chi Minh City. The findings indicate that absorptive capacity positively influences both organizational learning and innovation. Furthermore, organizational learning is found to mediate the relationship between absorptive capacity and innovation. Based on these results, the study proposes several managerial implications to support enterprises in enhancing their absorptive capacity, thereby improving their innovation performance.
Keywords: Absorptive capacity, innovation, organizational learning
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt và tốc độ thay đổi công nghệ ngày càng nhanh, các tổ chức buộc phải liên tục đổi mới để duy trì lợi thế và phát triển bền vững. Sự đổi mới phản ánh khả năng của tổ chức trong việc tạo ra và triển khai những ý tưởng mới, nhằm cải thiện sản phẩm, quy trình, mô hình hoạt động và phương thức quản trị (Alegre và cộng sự, 2023). Để đạt được sự đổi mới một cách hiệu quả, các tổ chức cần có khả năng tiếp nhận và vận dụng tri thức một cách linh hoạt. Trong đó, khả năng hấp thụ tri thức đóng vai trò then chốt, phản ánh năng lực của tổ chức trong việc nhận biết, thu thập, phân tích và ứng dụng tri thức từ môi trường bên ngoài vào các hoạt động của tổ chức, để nâng cao hiệu quả vận hành và gia tăng giá trị cho tổ chức (Sanchez và cộng sự, 2020).
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, tri thức chỉ thực sự trở thành nguồn lực đổi mới khi tổ chức có khả năng tiếp nhận và vận dụng tri thức thông qua các cơ chế học tập hiệu quả. Học hỏi tổ chức không chỉ duy trì dòng chảy tri thức, mà còn tạo nền tảng cho việc chuyển hóa tri thức thành hành động và kết quả thực tiễn. Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích mối quan hệ giữa khả năng hấp thụ tri thức và sự đổi mới, đồng thời làm rõ vai trò trung gian của học hỏi tổ chức trong mối quan hệ này.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Khả năng hấp thụ tri thức phản ánh mức độ mà tổ chức có thể nhận biết, thu nhận, phân tích và áp dụng hiệu quả tri thức từ môi trường bên ngoài vào các quá trình bên trong tổ chức, nhằm tạo ra giá trị mới (Jarrar, 2022). Khả năng hấp thụ tri thức bao gồm 4 giai đoạn: tiếp nhận, đồng hóa, chuyển đổi và khai thác tri thức (Del Carpio và Miralles, 2018).
Sự đổi mới là yếu tố nền tảng trong chiến lược phát triển của các tổ chức hiện đại, đóng vai trò trung tâm trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng thích ứng đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Sự đổi mới là quá trình tạo ra và áp dụng các ý tưởng mới, nhằm cải thiện sản phẩm, dịch vụ, quy trình hoặc mô hình tổ chức (Frizzo và Gomes, 2017). Việc thúc đẩy sự đổi mới đòi hỏi một nền văn hóa khuyến khích sáng tạo, cơ chế hỗ trợ quyết định linh hoạt và môi trường làm việc cởi mở (Ren và cộng sự, 2018). Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, vai trò của đổi mới càng trở nên quan trọng hơn trong việc đảm bảo tính linh hoạt và khả năng phục hồi của tổ chức.
Học hỏi tổ chức là một quá trình chiến lược, giúp tổ chức tích lũy và vận dụng tri thức, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động (Alegre và cộng sự, 2023). Việc xây dựng văn hóa khuyến khích trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm là điều kiện quan trọng để thúc đẩy học hỏi tổ chức (Valencia và cộng sự, 2024). Học hỏi tổ chức không chỉ phụ thuộc vào đào tạo chính quy, mà còn diễn ra thông qua tương tác hàng ngày giữa các nhân viên. Cơ chế phản hồi và cải tiến liên tục là đặc điểm nổi bật trong hệ thống học hỏi tổ chức hiệu quả. Trong học hỏi tổ chức, công nghệ thông tin hỗ trợ việc lưu trữ, truyền đạt và phổ biến tri thức đến toàn hệ thống (Liao và cộng sự, 2017). Học hỏi tổ chức là nền tảng để duy trì năng lực quản trị tri thức và nâng cao khả năng phối hợp giữa các bộ phận (Frizzo và Gomes, 2017).
Khả năng hấp thụ tri thức được xem là yếu tố nền tảng thúc đẩy quá trình học hỏi tổ chức một cách hiệu quả và bền vững (Valencia và cộng sự, 2024). Khi khả năng hấp thụ tri thức được nâng cao, tổ chức có thể rút ngắn chu kỳ học hỏi và cải thiện quá trình ra quyết định. Thông qua các hoạt động học tập mang tính hệ thống, tổ chức có thể chuyển hóa tri thức thu nhận được thành các sáng kiến đổi mới cụ thể. Điều này cho thấy, học hỏi tổ chức không chỉ là kênh chuyển tiếp, mà còn là chất xúc tác cho sự đổi mới. Học hỏi tổ chức giúp ảnh hưởng của khả năng hấp thụ tri thức đối với sự đổi mới được củng cố và phát huy rõ ràng hơn.
Giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết, tác giả đề xuất các giả thuyết nghiên cứu như sau:
H1: Khả năng hấp thụ tri thức có tác động tích cực đến học hỏi tổ chức.
H2: Khả năng hấp thụ tri thức có tác động tích cực đến sự đổi mới.
H3: Học hỏi tổ chức có tác động tích cực đến sự đổi mới.
H4: Học hỏi tổ chức đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa khả năng hấp thụ tri thức và sự đổi mới.
Mô hình nghiên cứu đề xuất như Hình.
Hình: Mô hình nghiên cứu đề xuất
![]() |
Nguồn: Tác giả đề xuất
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 5/2025, áp dụng phương pháp lấy mẫu có chủ đích. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 238 nhà quản lý thuộc các doanh nghiệp du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình nghiên cứu bao gồm 3 yếu tố: (1) Khả năng hấp thụ tri thức, (2) Học hỏi tổ chức và (3) Sự đổi mới. Các thang đo trong nghiên cứu được tham khảo từ các nghiên cứu của Jarrar (2022), Valencia và cộng sự (2024) và Alegre và cộng sự (2023).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Phân tích độ tin cậy cho các thang đo
| Thang đo | Số lượng biến quan sát | Cronbach’s Alpha |
| TT | 7 | 0,921 |
| HH | 6 | 0,825 |
| ĐM | 8 | 0,872 |
Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra của tác giả, 2025
Kết quả nghiên cứu tại Bảng 1 cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha của các thang đo dao động từ 0,825 đến 0,921. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha > 0,600, điều này cho thấy rằng các thang đo được sử dụng là đáng tin cậy.
Bảng 2: Kết quả đánh giá mô hình đo lường
| Nhân tố | Hệ số tải (Loadings) | Hệ số phương sai trích (AVE) | Hệ số phóng đại phương sai (VIF) | Độ tin cậy tổng hợp (CR) |
| TT | 0,67-0,74 | 0,738 | 3,047 | 0,915 |
| HH | 0,62-0,66 | 0,684 | 3,441 | 0,818 |
| ĐM | 0,64-0,69 | 0,703 | 2,782 | 0,864 |
Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra của tác giả, 2025
Kết quả Bảng 2 cho thấy, hệ số tải của các nhân tố nằm trong khoảng từ 0,62 đến 0,74 và đều > 0,5. Chỉ số AVE nằm trong khoảng từ 0,684 đến 0,738 > 0,5 (Hair và cộng sự, 2017). Chỉ số VIF nằm trong khoảng từ 2,782 đến 3,441, kết quả này thấp hơn nhiều so với ngưỡng 5 (Hair và cộng sự, 2017). Độ tin cậy tổng hợp (CR) nằm trong khoảng từ 0,818 đến 0,915 > 0,7 và không vượt quá ngưỡng 0,95 (Hair và cộng sự, 2017).
Bảng 3: Hệ số kiểm định giá trị phân biệt
| Nhân tố | Hệ số tương quan | ||
|
| TT | HH | ĐM |
| TT | 0,785 |
|
|
| HH | 0,413 | 0,822 |
|
| ĐM | 0,528 | 0,609 | 0,817 |
Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra của tác giả, 2025
Bảng 3 cho thấy, các biến tạo được giá trị phân biệt so với các biến còn lại, có thể thấy các giá trị in đậm tại đường chéo trong Bảng 3 đều lớn hơn các giá trị của các biến khác theo chiều dọc cũng như chiều ngang, kết quả này cũng đáp ứng tiêu chuẩn của Hair và cộng sự (2017).
Bảng 4: Kết quả kiểm định giả thuyết
| Giả thuyết | Mối quan hệ | Hệ số ước lượng (chuẩn hóa) | Giá trị p | Kết luận |
| H1 | TT -> HH | 0,78 | 0,002 | Chấp nhận |
| H2 | TT -> ĐM | 0,67 | 0,018 | Chấp nhận |
| H3 | HH -> ĐM | 0,54 | 0,026 | Chấp nhận |
| H4 | TT -> HH -> ĐM | 0,36 | 0,003 | Chấp nhận |
Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra của tác giả, 2025
Kết quả Bảng 4 cho thấy, cả 4 giả thuyết đặt ra trong nghiên cứu đều được chấp nhận.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, khả năng hấp thụ tri thức đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng đáng kể đối với sự đổi mới và học hỏi tổ chức. Nhằm tăng cường hiệu quả của khả năng hấp thụ tri thức trong việc thúc đẩy sự đổi mới, các doanh nghiệp cần xây dựng văn hóa học hỏi để thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức, phản biện tích cực và cải tiến liên tục trong toàn bộ tổ chức. Việc thành lập các nhóm làm việc với thành phần đa dạng sẽ giúp kết nối các luồng tri thức khác nhau, từ đó nâng cao khả năng tích hợp và khai thác hiệu quả các nguồn tri thức sẵn có. Vai trò của lãnh đạo là đặc biệt quan trọng trong việc định hướng ưu tiên tri thức chiến lược, phân bổ nguồn lực và tạo môi trường thuận lợi cho sự đổi mới diễn ra. Đồng thời, doanh nghiệp cần thường xuyên theo dõi và đánh giá mức độ chuyển hóa tri thức thành kết quả thực tiễn để có các điều chỉnh phù hợp. Việc giảm thiểu các rào cản tổ chức như thiếu kết nối thông tin, giao tiếp kém giữa các bộ phận hay cấu trúc quản lý cứng nhắc sẽ giúp gia tăng hiệu quả của quá trình hấp thụ tri thức.
Học hỏi tổ chức tác động tích cực đến sự đổi mới ở nhân viên. Đồng thời, kết quả nghiên cứu chứng minh vai trò trung gian của học hỏi tổ chức trong mối quan hệ giữa khả năng hấp thụ tri thức và sự đổi mới. Do đó, nhằm gia tăng hiệu quả của học hỏi tổ chức trong việc thúc đẩy sự đổi mới, các doanh nghiệp cần xây dựng văn hóa học hỏi để thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức, phản biện tích cực và cải tiến liên tục trong toàn bộ tổ chức. Doanh nghiệp nên tạo ra môi trường nơi nhân viên cảm thấy được lắng nghe, được khuyến khích thử nghiệm và không lo sợ thất bại. Bên cạnh đó, các cơ chế chính thức như hệ thống phản hồi 2 chiều, họp tổng kết kinh nghiệm sau dự án và chia sẻ bài học nên được áp dụng đồng bộ để duy trì động lực học hỏi trong tổ chức. Việc tổ chức các chương trình đào tạo nội bộ, hội thảo chuyên môn và luân chuyển công việc cũng giúp thúc đẩy khả năng học hỏi và sáng tạo của nhân viên. Các nhóm liên chức năng cần được khuyến khích phối hợp, nhằm khai thác tối đa tri thức và lan tỏa tinh thần học tập xuyên suốt các đơn vị trong tổ chức. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống đo lường hiệu quả học hỏi tổ chức, bao gồm các chỉ số định tính và định lượng phản ánh sự cải thiện trong tư duy đổi mới và hiệu quả vận hành. Khi học hỏi tổ chức được cải thiện, tổ chức sẽ hình thành được năng lực đổi mới liên tục dựa trên sự tích lũy kinh nghiệm và chuyển hóa tri thức thành hành động. Đây là tiền đề quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao sự linh hoạt và tạo ra giá trị vượt trội trong môi trường cạnh tranh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alegre, J., Bogolyubov, P. and Soule, R. T. (2023). Guest editorial: The link between learning organization, organizational learning and innovation: new and unusual perspectives. Learning Organization/the Learning Organisation, 30(1), 1–5. DOI: 10.1108/tlo-01-2023-288.
2. Del Carpio, J. and Miralles, F. (2018). Absorptive capacity and innovation in low-tech companies in emerging economies. Journal of Technology Management and Innovation, 13(2), 3–11. DOI: 10.4067/s0718-27242018000200003.
3. Hair, Jr., J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M. and Sarstedt, M. (2017). A primer on partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM) (2nd ed.). USA: Sage Publications.
4. Jarrar, A. S. (2022). The absorptive capacity and innovation in Jordanian universities. Modern Applied Science, 16(1), 22–22. DOI: 10.5539/mas.v16n1p22.
5. Liao, S. H., Chen, C. C., Hu, D. C., Chung, Y. C. and Yang, M. J. (2017). Developing a sustainable competitive advantage: absorptive capacity, knowledge transfer and organizational learning. The Journal of Technology Transfer, 42. DOI: 10.1007/s10961-016-9532-1.
6. Ren, Z., Zhan, K., Boadu, F. and Liu, Y. (2018). The effects of boundary-spanning search, network ties, and absorptive capacity for innovation: a moderated mediation examination. Sustainability, 10(11), 3980–3980. DOI: 10.3390/su10113980.
7. Sanchez, L. C., Stein, W., Risco-Martinez, S. and Ricalde, M. (2020). The Impact of Absorptive Capacity on Innovation in Peru. Journal of technology management & innovation, 15, 19-29. DOI: 10.4067/s0718-27242020000400019.
8. Valencia, A. S., Santa, R., Fajardo Ortiz, M., Cruz, M., Estrada, M., Mariosa, D. and Gomez, D. (2024). Knowledge management and its impact on social performance in solidarity organizations: The role of absorptive capacity and organizational learning. CIRIEC-Espana, revista de economia publica, social y cooperative, 291. DOI: 10.7203/CIRIEC-E.110.26025.
| Ngày nhận bài: 05/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/6/2025; Ngày duyệt đăng: 24/6/2025 |


Bình luận