Trần Văn Hoàng, Phan Thị Thu Hoà,

Võ Ngọc Trường Sơn, Trần Ngọc Quyền

Trường Du lịch - Đại học Huế

Email: vntson@hueuni.edu.vn

Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đánh giá một bộ thang đo đáng tin cậy nhằm xác định các rào cản trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, trong bối cảnh đặc thù của Trường Du lịch - Đại học Huế. Thông qua quy trình phân tích dữ liệu một cách khoa học, từ đánh giá độ tin cậy Cronbach's Alpha đến phân tích nhân tố khám phá (EFA), nghiên cứu đã đưa ra được một bộ thang đo hoàn chỉnh và đáng tin cậy, bao gồm 2 nhóm yếu tố chính được xem là rào cản ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên, bao gồm: Rào cản từ phía sinh viên (những trở ngại xuất phát từ chính bản thân sinh viên như thiếu hụt kiến thức, kỹ năng nghiên cứu, thiếu động lực và kinh nghiệm; và Rào cản từ phía nhà trường (những khó khăn đến từ môi trường và hệ thống hỗ trợ của nhà trường, điển hình là sự hạn chế về kinh phí và sự thiếu vắng các hoạt động hướng dẫn, định hướng).

Từ khoá: Sinh viên, nghiên cứu khoa học, Trường Du lịch - Đại học Huế

Summary

The study aims to develop and evaluate a reliable measurement scale for identifying barriers to students' engagement in scientific research, specifically within the unique context of the School of Hospitality and Tourism – Hue University. By employing a systematic data analysis process, including internal consistency assessment using Cronbach’s Alpha and Exploratory Factor Analysis (EFA), the study proposes a comprehensive and reliable measurement scale comprising two main groups of barriers that affect student participation in scientific research: Student-related barriers, such as a lack of knowledge, research skills, motivation, and experience; and Institution-related barriers, involving challenges associated with the institutional environment and support systems, particularly limited funding and the lack of structured guidance and orientation activities.

Keywords: Students, scientific research, School of Hospitality and Tourism - Hue University

MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, Trường Du lịch - Đại học Huế (sau đây gọi là “Trường Du lịch”) luôn xác định nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh viên là một trong những trụ cột quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần hiện thực hoá sứ mệnh và mục tiêu đào tạo của Nhà trường. Với những nỗ lực, sự quan tâm từ ban lãnh đạo, đội ngũ giảng viên, Nhà trường luôn kỳ vọng phong trào NCKH sẽ ngày càng thu hút sự quan tâm và sẽ có nhiều sinh viên hơn nữa tham gia vào hoạt động NCKH với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực, đạt được nhiều thành tựu nổi bật hơn nữa trong học tập, góp phần vào thành tích NCKH chung của nhà trường. Tuy nhiên, việc thúc đẩy hoạt động NCKH của sinh viên phụ thuộc rất lớn vào việc nhận diện các yếu tố rào cản tạo ra tâm lý chưa mạnh dạn tham gia hoạt động, được phản ánh qua ý kiến của sinh viên. Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố rào cản ảnh hưởng đến việc tham gia hoạt động NCKH của sinh viên Trường Du lịch khám phá những yếu tố rào cản cản ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên là rất cần thiết.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Về mặt khái niệm, NCKH của sinh viên là hoạt động khoa học đầu tiên giúp người học vận dụng kiến thức lý thuyết để từng bước giải quyết các vấn đề thực tiễn (Luật KH&CN, 2013). Mục đích cốt lõi của hoạt động này là nâng cao chất lượng đào tạo, rèn luyện tư duy sáng tạo, năng lực nghiên cứu độc lập và bước đầu góp phần tạo ra tri thức mới cho xã hội. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy, thực tế cho thấy tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH còn rất thấp tại nhiều trường đại học, đơn cử như 7,3% tại Đại học Tài chính - Marketing (Hà Đức Sơn & Nông Thị Mai, 2021) và 6% tại Đại học Y Dược Cần Thơ (Trần Đức Long & cộng sự, 2024). Thực trạng này cho thấy sự cần thiết phải xác định các yếu tố cản trở sinh viên tham gia vào hoạt động NCKH.

Tổng quan các công trình trong nước cho thấy có 2 nhóm rào cản chính. Thứ nhất là các rào cản xuất phát từ cá nhân sinh viên. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự thiếu hụt về năng lực, kiến thức và kỹ năng nghiên cứu là trở ngại lớn nhất (Trần Thị Thảo, 2017; Nguyễn Minh Đức & cộng sự, 2020; Trần Đức Long & cộng sự, 2024). Bên cạnh đó, các yếu tố như thiếu động lực, thiếu kinh nghiệm thực tế, hạn chế về thời gian và khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu cũng được xác định là những rào cản phổ biến (Hồ Thị Phượng & Nguyễn Bá Tường, 2021; Trần Phan Khánh Trang & cộng sự, 2023).

Thứ hai là các rào cản từ phía nhà trường và hệ thống. Các nghiên cứu đều nhấn mạnh đến vai trò của môi trường nghiên cứu, bao gồm sự quan tâm, hướng dẫn của giảng viên và các chính sách hỗ trợ (Kim Ngọc & Hoàng Nguyên, 2015; Hà Đức Sơn & Nông Thị Mai, 2021). Cụ thể, việc thiếu sự cố vấn, thiếu các khóa đào tạo định hướng, hạn chế về kinh phí và cơ sở vật chất, cùng các thủ tục hành chính phức tạp đã được chứng minh là ảnh hưởng tiêu cực đến sự tham gia NCKH của sinh viên (Trần Thị Thảo, 2017; Nguyễn Minh Đức & cộng sự, 2020; Trần Đức Long & cộng sự, 2024; Phan Trần Khánh Trang & cộng sự, 2023).

Tổng quan các nghiên cứu trước đây cho thấy, những nghiên cứu về rào cản trong hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng như các thang đo lường liên quan, chủ yếu được phát triển và kiểm định trên đối tượng sinh viên thuộc khối ngành kinh tế, kỹ thuật và y dược. Tuy nhiên, sinh viên ngành Du lịch lại là một nhóm đối tượng mang tính đặc thù cao với chương trình đào tạo có thời lượng thực hành, thực tập lớn, cùng định hướng nghề nghiệp và yêu cầu kỹ năng mềm khác biệt. Điển hình như tại Trường Du lịch, sinh viên đã tham gia thực tập tại các doanh nghiệp ngay từ năm học đầu tiên.

Sự khác biệt này có thể dẫn đến cấu trúc, mức độ và biểu hiện của các rào cản NCKH mà sinh viên ngành Du lịch đối mặt cũng có những nét riêng. Mặc dù vậy, một nghiên cứu chuyên sâu nhằm xây dựng và kiểm định thang đo các rào cản này trong bối cảnh đặc thù của sinh viên Trường Du lịch vẫn là một khoảng trống.

Mô hình nghiên cứu

Xuất phát từ mục tiêu khám phá, nghiên cứu đề xuất một khung nghiên cứu khái niệm ban đầu để hệ thống hóa các khái niệm và thang đo nghiên cứu. Khung nghiên cứu này không nhằm kiểm định mối quan hệ nhân quả, mà đóng vai trò là nền tảng lý thuyết để thực hiện các phân tích thống kê khám phá (đặc biệt là Phân tích nhân tố khám phá - EFA). Cụ thể, khái niệm “rào cản tham gia NCKH của sinh viên” là một khái niệm đa thành phần, được thể hiện qua 2 nhân tố độc lập được tổng hợp từ cơ sở lý thuyết: (a) Rào cản bên trong; và (b) Rào cản bên ngoài. Nhân tố phụ thuộc trong nghiên cứu này là “Sự tham gia NCKH của sinh viên” được được kế thừa từ nghiên cứu của Trần Phan Khánh Trang & cộng sự (2023). Cụ thể các thang đo nghiên cứu được thể hiện như sau:

Rào cản bên trong: Phản ánh những trở ngại xuất phát từ chính nhận thức, năng lực và điều kiện cá nhân của sinh viên. Các biến quan sát ban đầu bao gồm:

RCBT1: Thiếu hứng thú hoặc động lực để nghiên cứu.

RCBT2: Thiếu kiến thức và kỹ năng về phương pháp nghiên cứu.

RCBT3: Hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn tài liệu cần cho NCKH.

RCBT4: Thiếu thông tin về các hoạt động NCKH của trường, khoa.

RCBT5: Thiếu năng lực viết và trình bày một báo cáo khoa học.

RCBT6: Quỹ thời gian dành cho NCKH bị hạn chế do lịch học, làm thêm.

RCBT7: Thiếu kinh nghiệm thực tế trong việc thực hiện NCKH.

Rào cản bên ngoài: Phản ánh những khó khăn đến từ môi trường học thuật và hệ thống hỗ trợ của nhà trường, khoa. Các biến đo lường này được kế thừa và phát triển từ các nghiên cứu về vai trò của giảng viên hướng dẫn, chính sách kinh phí và môi trường chung của Hà Đức Sơn & Như Mai (2019), Nguyễn Minh Đức & cộng sự (2020), Trần Đức Long & cộng sự (2024) và Trần Phan Khánh Trang & cộng sự (2023). Thang đo này bao gồm 5 biến quan sát ban đầu:

RCBN1: Nhà trường, khoa chưa thực sự ưu tiên cho hoạt động NCKH của sinh viên.

RCBN2: Thiếu các hoạt động, lớp tập huấn bổ trợ kiến thức NCKH.

RCBN3: Thiếu sự định hướng, hỗ trợ và hướng dẫn nhiệt tình từ giảng viên.

RCBN4: Kinh phí hỗ trợ cho việc thực hiện một đề tài NCKH còn hạn chế.

Sự Tham gia nghiên cứu khoa học (TGNCKH): Để đo lường mức độ sẵn sàng và kế hoạch tham gia NCKH của sinh viên, nghiên cứu sử dụng thang đo được kế thừa từ nghiên cứu của Trần Phan Khánh Trang & cộng sự (2023), bao gồm các biến sau:

TGNCKH1: Tôi sẵn sàng dành nhiều thời gian để tìm hiểu kỹ hơn về NCKH.

TGNCKH 2: Tôi sẵn sàng tham gia NCKH mặc dù chưa có hoặc có ít kinh nghiệm.

TGNCKH3: Tôi sẵn sàng thực hiện NCKH cũng giống như việc học các học phần khác ở trường.

TGNCKH4: Tôi sẽ lên kế hoạch đăng ký thực hiện NCKH trong thời gian tới.

Phương pháp nghiên cứu

Để nhận diện các yếu tố rào cản tham gia NCKH của sinh viên Trường Du lịch, nghiên cứu đã tiến hành điều tra nhóm đối tượng sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba thuộc ngành Quản trị Khách sạn - Nhà hàng của Trường Du lịch. Cụ thể, nhóm nghiên cứu tiến hành phát ra 165 phiếu khảo sát bằng hình thức trực tiếp. Thời gian khảo sát từ tháng 2 đến tháng 4/2025 (Nghiên cứu sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm định thang đo

Kết quả phân tích Cronbach's Alpha lần đầu cho thấy một số thang đo chưa đạt độ tin cậy yêu cầu. Sau khi xem xét các chỉ số, nghiên cứu đã tiến hành loại 3 biến quan sát không phù hợp, bao gồm RCBT6 ("Quỹ thời gian..."), RCBT7 ("Thiếu kinh nghiệm..."), và RCBN5 ("Bố trí thời gian học...") do các biến này có hệ số tương quan biến - tổng thấp và giá trị “Cronbach’s Alpha if Item Deleted” cao hơn hệ số Alpha tổng của thang đo. Sau khi loại bỏ 3 biến này, kết quả phân tích lần cuối cho thấy tất cả các thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha > 0.7 và các biến quan sát còn lại đều thỏa mãn điều kiện, khẳng định các thang đo đã đạt độ tin cậy để sử dụng trong các phân tích tiếp theo.

Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Đối với nhân tố độc lập

Kết quả Bảng 1 cho thấy kiểm định KMO = 0.820, kiểm định Bartlett's có Sig. = 0.000, có trị số Eigenvalue ≥ 1 và hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều > 0.5 do đó các biến này có độ tin cậy và ý nghĩa thực tiễn.

Bảng 1: Kết quả phân tích EFA nhân tố độc lập

Biến quan sát

1

2

Thiếu hứng thú hoặc động lực để nghiên cứu

0.743

Thiếu kiến thức và kỹ năng về phương pháp nghiên cứu

0.800

Kĩ năng tìm kiếm nguồn tài liệu còn hạn chế

0.682

Thiếu năng lực viết và đăng bài báo khoa học

0.705

Nhà trường chưa thể hiện được tầm quan trọng và sự ưu tiên đối với hoạt động NCKH của sinh viên

0.650

Thiếu các hoạt động bổ trợ dành cho hoạt động NCKH sinh viên

0.778

Thiếu các hoạt động bổ trợ (cấp Khoa/ Trường) dành cho hoạt động NCKH của sinh viên

0.737

Thiếu sự định hướng và hướng dẫn của giảng viên

0.800

Hạn chế thông tin NCKH từ phía nhà trường

0.720

Eigenvalue

3.836

1.450

Phương sai trích %

42.621

16.109

Phương sai trích tích lũy %

42.621

58.730

Nguồn: Xử lý số liệu điều tra, 2025

Kết quả phân tích EFA biến phụ thuộc

Kết quả EFA biến phụ thuộc cho thấy, hệ số KMO = 0.725 (0.5 < KMO < 1); Kiểm định Bartlett's với giá trị Sig. = 0.000 (<0.05); Eigenvalue = 2.658, phương sai trích = 66.451%, toàn bộ hệ số tải nhân tố đều > 0.5 đảm bảo yêu cầu kiểm định và thành phần này thích hợp.

Phân tích thống kê mô tả

Phân tích này được thực hiện nhằm đánh giá nhận thức của sinh viên về mức độ của các rào cản trong hoạt động NCKH (Bảng 2). Kết quả cho thấy, nhóm “Rào cản từ phía sinh viên” được sinh viên đánh giá ở mức độ cao hơn (GTTB = 3.53) so với nhóm “Rào cản từ phía nhà trường” (GTTB = 3.16). Cụ thể, trong các rào cản từ phía sinh viên, “Thiếu kiến thức và kỹ năng về phương pháp nghiên cứu” được xem là trở ngại lớn nhất với giá trị trung bình cao nhất (GTTB = 3.62).

Đối với các rào cản từ phía nhà trường, “Kinh phí dành cho hoạt động NCKH hạn chế” là yếu tố được sinh viên đồng tình nhiều nhất (GTTB = 3.30). Kết quả này phản ánh nhận thức của sinh viên rằng các chính sách hỗ trợ tài chính hiện tại chưa đủ hấp dẫn và là một trở ngại đáng cân nhắc.

Bảng 2: Đánh giá của sinh viên về các nhân tố rào cản tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên

TT

Nội dung

Giá trị trung bình

(GTTB)

Rào cản từ phía sinh viên

3.53

1

Thiếu hứng thú hoặc động lực để nghiên cứu

3.46

2

Thiếu kiến thức và kỹ năng về phương pháp nghiên cứu

3.62

3

Kĩ năng tìm kiếm nguồn tài liệu còn hạn chế

3.50

4

Thiếu năng lực viết và đăng bài báo khoa học

3.55

Rào cản từ phía nhà trường

3.17

6

Nhà trường chưa thể hiện được tầm quan trọng và sự ưu tiên đối với NCKH của sinh viên

3.08

7

Thiếu các hoạt động bổ trợ dành cho hoạt động NCKH của sinh viên

3.13

8

Thiếu các hoạt động bổ trợ (cấp Khoa/ Trường) dành cho hoạt động NCKH của sinh viên

3.07

9

Thiếu sự định hướng và hướng dẫn của giảng viên

3.30

10

Hạn chế thông tin NCKH từ phía nhà trường

3.36

Nguồn: Xử lý số liệu điều tra, 2025

KẾT LUẬN

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu chính là xây dựng và đánh giá 1 bộ thang đo đáng tin cậy nhằm xác định các rào cản trong hoạt động NCKH của sinh viên, trong bối cảnh đặc thù của Trường Du lịch - Đại học Huế. Thông qua quy trình phân tích dữ liệu một cách khoa học, từ đánh giá độ tin cậy Cronbach's Alpha đến phân tích nhân tố khám phá (EFA), nghiên cứu đã đạt được mục tiêu đề ra.

Từ kết quả và những hạn chế nhất định về phạm vi của nghiên cứu hiện tại, nhóm tác giả đề xuất một số hướng nghiên cứu có thể được phát triển trong tương lai:

Thứ nhất, tiến hành nghiên cứu định lượng giải thích để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố rào cản: Sử dụng bộ thang đo đã được kiểm định trong nghiên cứu này, một nghiên cứu tiếp theo có thể xây dựng mô hình hồi quy để xác định xem giữa "Rào cản bên trong" và "Rào cản bên ngoài", yếu tố nào có tác động tiêu cực mạnh mẽ hơn đến ý định tham gia NCKH của sinh viên. Kết quả này sẽ giúp nhà quản lý xác định được đâu là vấn đề ưu tiên cần giải quyết trước.

Thứ hai, mở rộng đối tượng và phạm vi khảo sát: Nghiên cứu hiện tại mới chỉ tập trung vào nhóm sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba. Tuy nhiên, nhận thức về rào cản có thể rất khác biệt ở sinh viên năm nhất (những người mới làm quen với môi trường đại học) và sinh viên năm cuối (những người đang chịu áp lực từ khóa luận tốt nghiệp và tìm kiếm việc làm). Do đó, một nghiên cứu với mẫu khảo sát bao gồm sinh viên từ năm nhất đến năm cuối sẽ mang lại cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về vấn đề này.

Tài liệu tham khảo:

1. Hà Đức Sơn, & Nông Thị Mai (2021). Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên - Nghiên cứu trường hợp Đại học Tài chính - Marketing. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing, 49, 13-24.

2. Hồ Thị Phượng, & Nguyễn Bá Tường (2021). Nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học: Thực tiễn tại Trường Đại học Luật, Đại học Huế. Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Xã hội và Nhân văn, 130(6C), 197-204.

3. Kim Ngọc & Hoàng Nguyên (2015). Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động NCKH sinh viên tại Đại học Duy Tân. Đại học Duy Tân. http://kdtqt.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/33/2008/nghien-cuu-nhan-to-anh-huong-den-hoat-dong-nckh-sinh-vien-tai-dai-hoc-duy-tan

4. Nguyễn Minh Đức, Tô Thị Kim Hồng, & Nguyễn Thành Tuân (2020). Khó khăn trong hoàn thành nghiên cứu khoa học của sinh viên khối ngành kinh tế tại TP.HCM. Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến, 7(3), 105-120.

5. Quốc hội (2013). Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13.

6. Trần Đức Long, Trần Thái Thanh Tâm, Lê Thị Gái, Nguyễn An Khang, Trần Văn Đệ, & Trần Thị Như Lê (2024). Động lực và rào cản trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Tạp chí Y dược học Cần Thơ, 71, 181-188.

7. Trần Phan Khánh Trang, Trần Thị Khánh Trâm, Đỗ Trường Xuân, & Cái Thị Thanh Lâm (2023). Nghiên cứu các nhân tố tác động đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế. Tạp chí Khoa học Quản lý và Kinh tế, 27. https://tapchi.hce.edu.vn/index.php/sjme/article/view/238

8. Trần Thị Thảo (2017). Thực trạng hoạt động NCKH của sinh viên Khoa Tâm lí - Giáo dục - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Tạp chí Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, 19, 126-135.

Ngày nhận bài: 24/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 27/7/2025; Ngày duyệt đăng: 29/7/2025