Võ Anh Tuấn

Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu Nghị

Email: tuanvo82@gmail.com

Tóm tắt

Trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa sâu rộng, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đang đứng trước cơ hội phát triển vượt bậc thông qua thương mại điện tử xuyên biên giới. Tuy nhiên, để tận dụng hiệu quả cơ hội này, cần có vai trò chủ động và chiến lược từ phía chính quyền địa phương trong việc xây dựng chính quyền điện tử, phát triển hạ tầng số và hỗ trợ hệ sinh thái thương mại điện tử cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bài viết phân tích mối quan hệ giữa chính quyền điện tử và thương mại điện tử xuyên biên giới, đồng thời đề xuất khung giải pháp chiến lược liên quan nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu bền vững sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam.

Từ khóa: Chính quyền điện tử, thương mại điện tử xuyên biên giới, thủ công mỹ nghệ, xuất khẩu bền vững

Summary

In the context of deepening digital transformation and globalization, Viet Nam’s handicraft exports have a significant opportunity for breakthrough growth through cross-border e-commerce. However, to take full advantage of this opportunity, proactive and strategic engagement from local governments is essential, particularly in the development of e-government, digital infrastructure, and support for the e-commerce ecosystem, especially for small and medium-sized enterprises. The study analyzes the relationship between e-government and cross-border e-commerce, and proposes a strategic policy framework aimed at enhancing competitiveness and promoting the sustainable export of Vietnamese handicraft products.

Keywords: E-governance, cross-border e-commerce, handicrafts, small and medium-sized enterprises, sustainable export

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước và kinh doanh thương mại trở thành xu thế tất yếu, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Ngành thủ công mỹ nghệ (TCMN), với tiềm năng xuất khẩu cao và giá trị văn hóa đặc sắc, đang đứng trước cơ hội tăng trưởng nhờ thương mại điện tử (TMĐT) xuyên biên giới và vai trò hỗ trợ từ chính quyền điện tử (e-Governance). Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân tích mối quan hệ giữa chính quyền điện tử và TMĐT xuyên biên giới trong xuất khẩu hàng TCMN tại Việt Nam, từ đó đề xuất khung giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ của chính quyền địa phương và thúc đẩy xuất khẩu bền vững cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong ngành.

THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ QUA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ XUYÊN BIÊN GIỚI

Trong hơn 2 thập kỷ qua, TCMN Việt Nam đã dần khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế nhờ mẫu mã đa dạng, giá trị văn hóa và tính cá nhân hóa cao. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt khoảng 2,2 tỷ USD, chủ yếu sang các thị trường, như: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản và Hàn Quốc, với các sản phẩm nổi bật như gốm, mây tre, sơn mài và lụa (Bộ Công Thương, 2023). Hà Nội là địa phương dẫn đầu với hơn 1.300 làng nghề truyền thống, trong đó nhiều làng đã hình thành doanh nghiệp nhỏ có khả năng xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu vẫn chủ yếu thông qua kênh truyền thống như trung gian hoặc hội chợ, trong khi tỷ lệ doanh nghiệp tham gia TMĐT xuyên biên giới còn dưới 10% (Đặng Thái Bình, 2023).

Dù các nền tảng như Amazon Handmade, Etsy, Alibaba và eBay đang mở ra cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu, nhưng phần lớn doanh nghiệp TCMN Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong triển khai TMĐT xuyên biên giới. Nhìn chung, có rất ít doanh nghiệp TCMN có gian hàng hoạt động hiệu quả trên sàn TMĐT quốc tế; số duy trì đơn hàng định kỳ cũng chưa nhiều. Nguyên nhân chủ yếu do doanh nghiệp thiếu chiến lược dài hạn, thiếu nhân lực quản trị TMĐT và logistics, cũng như hạn chế về kỹ năng marketing số, quản lý đơn hàng và xử lý dịch vụ khách hàng quốc tế

Mặc dù TMĐT xuyên biên giới mang lại nhiều cơ hội, song các doanh nghiệp TCMN tại Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức trên nhiều phương diện, cụ thể như sau:

Một là, thách thức về hạ tầng công nghệ và logistics. Phần lớn các doanh nghiệp TCMN có quy mô nhỏ, chưa đầu tư vào hệ thống công nghệ quản lý như phần mềm quản trị kho, hệ thống đặt hàng trực tuyến hay nền tảng xử lý đơn hàng quốc tế. Việc thiếu kho trung chuyển, mạng lưới hậu cần quốc tế và đơn vị vận chuyển chuyên biệt cho hàng thủ công khiến chi phí logistics tăng cao, đặc biệt là với các đơn hàng nhỏ lẻ. Ngoài ra, tình trạng thiếu dịch vụ hoàn thuế giá trị gia tăng, xử lý khai báo hải quan điện tử cũng làm tăng rủi ro và thời gian thực hiện đơn hàng.

Hai là, hạn chế về nhân lực số và kỹ năng quản trị TMĐT. Đa số các doanh nghiệp hiện nay chưa có đội ngũ nhân sự có khả năng vận hành gian hàng TMĐT xuyên biên giới. Khả năng sử dụng ngôn ngữ, quản trị tài khoản, giải quyết tranh chấp, thực hiện quảng cáo trực tuyến còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, đối với các sản phẩm TCMN có đặc thù về thiết kế và chất liệu, việc mô tả chính xác sản phẩm bằng tiếng Anh, xây dựng video quảng bá hoặc thực hiện livestream là thách thức lớn đối với người lao động truyền thống.

Ba là, khó khăn trong đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Phần lớn sản phẩm TCMN của Việt Nam mang tính truyền thống, chưa được chuẩn hóa về mẫu mã, mã số phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu (HS) hoặc thương hiệu vùng. Khi tham gia nền tảng TMĐT quốc tế, việc thiếu mã định danh sản phẩm, nhãn hiệu quốc tế hoặc đăng ký bản quyền có thể dẫn đến tranh chấp sở hữu trí tuệ và rủi ro bị đạo nhái sản phẩm. Hiện nay, rất ít doanh nghiệp TCMN có khả năng tự đăng ký nhãn hiệu tại thị trường Mỹ, EU, trong khi chi phí thuê luật sư quốc tế vượt quá khả năng tài chính của họ.

Bốn là, hạn chế trong truy cập tài chính và hỗ trợ đầu tư. Để vận hành hiệu quả hoạt động TMĐT xuyên biên giới, doanh nghiệp cần đầu tư vào chụp ảnh sản phẩm chuyên nghiệp, thuê dịch vụ logistics, duy trì gian hàng và triển khai chiến dịch quảng cáo. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp TCMN không tiếp cận được chương trình hỗ trợ tài chính phù hợp. Các quỹ bảo lãnh tín dụng chưa quan tâm đến lĩnh vực này, trong khi chính sách hỗ trợ phí gian hàng vẫn còn manh mún và thiếu hệ thống.

Năm là, thiếu thông tin thị trường và dữ liệu thương mại số. Doanh nghiệp nhỏ thường khó tiếp cận được dữ liệu thị trường nước ngoài, như: xu hướng tiêu dùng, mức giá cạnh tranh, yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật hay thị hiếu thẩm mỹ. Việc thiếu dữ liệu khiến doanh nghiệp không có cơ sở để thiết kế sản phẩm phù hợp, điều chỉnh chiến lược giá và xây dựng thương hiệu quốc tế.

Dù nhận thức rõ vai trò của TMĐT xuyên biên giới đối với xuất khẩu hàng TCMN, nhưng hiện nay phần lớn các chính quyền địa phương vẫn chưa có chiến lược tổng thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào thị trường số toàn cầu. Phần lớn các chính sách mới dừng lại ở cấp độ truyền thông, tập huấn cơ bản hoặc xây dựng các sàn giao dịch địa phương có quy mô nhỏ, chưa tương thích với yêu cầu của thị trường quốc tế. Một số địa phương đã ban hành kế hoạch phát triển TMĐT đến năm 2025, nhưng chưa phân tách nhóm doanh nghiệp TCMN để thiết kế chính sách chuyên biệt. Bên cạnh đó, thiếu vắng cơ chế phối hợp liên ngành giữa các sở, như: Sở Công Thương, Sở Khoa học và Công nghệ… trong việc triển khai chương trình đào tạo, xúc tiến thương mại số, hỗ trợ tài chính và bảo hộ thương hiệu, khiến các chính sách bị phân tán, thiếu hiệu quả. Ngoài ra, chưa có chính quyền địa phương nào thành lập trung tâm hỗ trợ TMĐT xuyên biên giới chuyên biệt cho ngành thủ công mỹ nghệ, trong khi mô hình này đã được triển khai thành công tại nhiều nước đang phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan…

VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐIỆN TỬ TRONG THÚC ĐẨY THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ XUẤT KHẨU THỦ CÔNG MỸ NGHỆ

Chính quyền điện tử không chỉ là công cụ hành chính số hóa, mà còn là một nền tảng tổ chức lại mô hình quản trị nhà nước theo hướng hiện đại, hiệu quả và phục vụ. Trong bối cảnh kinh tế số, chính quyền điện tử đóng vai trò kiến tạo thể chế và hạ tầng mềm, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Theo quan điểm của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), một chính quyền điện tử hiệu quả cần đảm bảo 3 yếu tố cốt lõi bao gồm chính sách số minh bạch, nền tảng dữ liệu mở và hệ thống dịch vụ công số đáp ứng kịp thời nhu cầu của doanh nghiệp (OECD, 2019). Trong lĩnh vực TCMN, điều này có nghĩa là chính quyền cần cung cấp thông tin thị trường quốc tế dưới dạng truy cập mở, hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn xuất khẩu, tổ chức kết nối giữa doanh nghiệp và nền tảng TMĐT xuyên biên giới, đồng thời đơn giản hóa các thủ tục hải quan và thuế qua cổng dịch vụ công điện tử. Một chính quyền điện tử hiện đại còn có thể vận hành các trung tâm hỗ trợ số chuyên biệt cho ngành hàng truyền thống. Những trung tâm này không chỉ tư vấn quy trình số hóa sản phẩm mà còn hướng dẫn doanh nghiệp đăng ký thương hiệu, thực hiện chiến lược truyền thông số và kết nối với các đối tác vận chuyển quốc tế. Tại một số quốc gia như Estonia, Thái Lan và Singapore, các mô hình trung tâm dịch vụ TMĐT tích hợp đã được chính quyền đầu tư triển khai thành công và trở thành đầu mối xúc tiến thương mại số hiệu quả (UNCTAD, 2022).

Một trong những rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tham gia TMĐT xuyên biên giới là thiếu dữ liệu thị trường đáng tin cậy và thiếu khả năng kết nối trực tiếp với nền tảng thương mại quốc tế. Trong hoàn cảnh đó, chính quyền điện tử có thể đóng vai trò cầu nối bằng việc phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu mở, cung cấp thông tin định kỳ về xu hướng tiêu dùng, tiêu chuẩn kỹ thuật, các rào cản phi thuế quan và những quy định pháp lý liên quan đến thị trường mục tiêu. Ngoài ra, chính quyền địa phương có thể chủ động ký kết biên bản ghi nhớ với các nền tảng TMĐT xuyên biên giới lớn để thiết lập chương trình hỗ trợ riêng cho doanh nghiệp TCMN.

Chẳng hạn, chương trình “Made in Hanoi” có thể được triển khai phối hợp với Amazon Handmade hoặc Etsy nhằm giới thiệu các sản phẩm truyền thống của Hà Nội ra thị trường quốc tế. Chính quyền sẽ đảm nhận vai trò điều phối, lựa chọn doanh nghiệp đủ điều kiện, tổ chức huấn luyện kỹ thuật số, đồng thời bảo trợ thương hiệu vùng để đảm bảo chất lượng và uy tín sản phẩm. Việc xây dựng Cổng thông tin điện tử tập trung của Hà Nội về TMĐT xuất khẩu cũng là một giải pháp then chốt. Cổng thông tin này không chỉ cung cấp thông tin chính sách và biểu mẫu điện tử, mà còn kết nối doanh nghiệp với dịch vụ logistics, nhà cung cấp giải pháp công nghệ, ngân hàng thanh toán quốc tế và các tổ chức bảo vệ sở hữu trí tuệ. Mô hình một cửa điện tử này giúp giảm thời gian tiếp cận thông tin, tăng tính minh bạch trong thủ tục và nâng cao khả năng số hóa quy trình xuất khẩu của DNNVV.

Đối với doanh nghiệp TCMN, việc chuyển đổi mô hình kinh doanh truyền thống sang TMĐT xuyên biên giới đòi hỏi sự thay đổi toàn diện về tư duy, kỹ năng và cấu trúc vận hành. Trong quá trình này, chính quyền điện tử có thể đóng vai trò là trung tâm phát triển năng lực số cho cộng đồng doanh nghiệp. Chính quyền địa phương có thể phối hợp với các trường đại học, tổ chức xúc tiến thương mại, công ty công nghệ và hiệp hội nghề nghiệp để xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu về vận hành TMĐT quốc tế, bao gồm các nội dung như cách thiết lập gian hàng trên nền tảng quốc tế, phương pháp chụp ảnh sản phẩm chuyên nghiệp, tối ưu mô tả sản phẩm bằng tiếng nước ngoài, xử lý đơn hàng quốc tế, thực hiện chiến dịch truyền thông và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đào tạo kỹ năng, chính quyền cũng có thể khuyến khích doanh nghiệp tham gia các chương trình “vườn ươm số hóa” theo ngành hàng, trong đó doanh nghiệp được tiếp cận với dịch vụ số hóa mẫu mã, thiết kế bao bì, xây dựng bộ nhận diện thương hiệu, đồng thời được thử nghiệm công cụ quản lý tồn kho và dữ liệu khách hàng trên môi trường số. Những sáng kiến này không chỉ giúp nâng cao năng lực thích nghi mà còn thúc đẩy sự hình thành tư duy thương mại số trong nội tại doanh nghiệp truyền thống. Đặc biệt, đối với các làng nghề, chính quyền cần đóng vai trò dẫn dắt trong việc hình thành cụm sản xuất thông minh hoặc hợp tác xã số. Mỗi cụm làng nghề có thể được tích hợp hệ thống kho chung, nền tảng bán hàng tập trung, dịch vụ livestream chuyên biệt và đội ngũ tư vấn TMĐT chuyên sâu. Qua đó, doanh nghiệp nhỏ có thể tận dụng sức mạnh tập thể để vượt qua rào cản công nghệ và tài chính trong việc gia nhập thị trường toàn cầu.

Một trong những lo ngại lớn nhất của doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu qua nền tảng TMĐT quốc tế là nguy cơ bị xâm phạm bản quyền, đánh cắp mẫu mã hoặc gặp tranh chấp pháp lý quốc tế. Trong bối cảnh đó, chính quyền điện tử có thể đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cơ bản, tư vấn đăng ký nhãn hiệu và hỗ trợ xử lý tranh chấp qua nền tảng số. Trước hết, chính quyền cần xây dựng cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu địa phương, đặc sản vùng miền và mẫu mã truyền thống, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký bảo hộ thương hiệu tại thị trường quốc tế. Những sáng kiến như xây dựng thương hiệu vùng “Crafted in Hanoi” hoặc “Vietnamese Heritage Handicrafts” nếu được bảo hộ tập thể sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ trong quá trình bán hàng qua các nền tảng TMĐT. Bên cạnh đó, chính quyền cũng cần thiết lập kênh tư vấn pháp lý TMĐT xuyên biên giới, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm hiểu các quy định thương mại quốc tế, xử lý khiếu nại và thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro pháp lý. Việc phổ biến quy định thuế quan, quyền sở hữu trí tuệ, luật bảo vệ người tiêu dùng và cơ chế giải quyết tranh chấp của các thị trường mục tiêu, như: Mỹ, EU, Nhật Bản sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường năng lực tự vệ và giảm thiểu rủi ro trong giao dịch quốc tế.

ĐỀ XUẤT KHUNG CHIẾN LƯỢC CHÍNH QUYỀN ĐIỆN TỬ HỖ TRỢ XUẤT KHẨU THỦ CÔNG MỸ NGHỆ

Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn phân tích, có thể xác lập một khung chiến lược chính quyền điện tử nhằm hỗ trợ hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng TCMN qua TMĐT xuyên biên giới. Khung chiến lược này bao gồm 4 trụ cột chính, liên kết chặt chẽ với nhau và lấy doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ trong bối cảnh chính quyền kiến tạo và nền kinh tế số đang phát triển nhanh chóng. Khung chiến lược trên cần được điều phối bởi một đầu mối chính sách tại cấp địa phương, đi kèm cơ chế đánh giá định kỳ và điều chỉnh linh hoạt theo biến động thị trường quốc tế và tốc độ phát triển của nền kinh tế số. Việc triển khai chiến lược không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng TCMN, mà còn đóng vai trò then chốt trong thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện khu vực DNNVV tại Việt Nam.

Một là, trụ cột hạ tầng số công, bao gồm việc xây dựng cổng thông tin TMĐT chuyên biệt cho ngành hàng TCMN. Cổng thông tin này cung cấp dữ liệu mở về xu hướng tiêu dùng quốc tế, thông tin về nền tảng TMĐT, yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật, cũng như kết nối với các đơn vị logistics, ngân hàng thanh toán quốc tế và cơ quan hải quan điện tử. Hạ tầng này cần được tích hợp với cổng dịch vụ công trực tuyến để đảm bảo doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh chóng các chính sách hỗ trợ, đăng ký tham gia chương trình xúc tiến số và thực hiện thủ tục xuất khẩu trực tuyến.

Hai là, trụ cột phát triển năng lực số cho doanh nghiệp, trong đó chính quyền điện tử đóng vai trò trung tâm tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu, vườn ươm chuyển đổi số và mạng lưới tư vấn TMĐT. Các nội dung đào tạo cần hướng đến việc nâng cao kỹ năng số hóa sản phẩm, xây dựng thương hiệu, vận hành gian hàng TMĐT quốc tế và xử lý đơn hàng xuyên biên giới. Đồng thời, cần khuyến khích hình thành các hợp tác xã số hoặc cụm doanh nghiệp làng nghề ứng dụng công nghệ trong sản xuất và thương mại hóa.

Ba là, trụ cột xúc tiến thương hiệu vùng và kết nối thị trường quốc tế. Chính quyền cần đóng vai trò định vị thương hiệu địa phương thông qua các chương trình như “Crafted in Hanoi” hoặc “Vietnamese Cultural Handicrafts”, đồng thời chủ động hợp tác với các nền tảng TMĐT quốc tế để tổ chức tuần lễ thương hiệu, hội chợ ảo và livestream bán hàng toàn cầu. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ tập thể, hướng dẫn đăng ký thương hiệu quốc tế và tư vấn pháp lý TMĐT xuyên biên giới cũng cần được tích hợp vào chiến lược này.

Bốn là, trụ cột tài chính và cơ chế chính sách hỗ trợ. Cần hoàn thiện các chương trình ưu đãi thuế, tín dụng TMĐT và hỗ trợ chi phí gian hàng trực tuyến đối với doanh nghiệp TCMN. Chính quyền có thể hợp tác với ngân hàng và tổ chức tín dụng để thiết lập các gói vay ưu đãi đầu tư cho hoạt động xuất khẩu qua TMĐT, đồng thời ban hành cơ chế khuyến khích số hóa toàn diện đối với cơ sở sản xuất truyền thống có năng lực chuyển đổi thành doanh nghiệp xuất khẩu số.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Công Thương (2023). Báo cáo ngành thủ công mỹ nghệ và tiềm năng xuất khẩu qua TMĐT, Nxb Công Thương.

2. Đặng Thái Bình (2023). Áp dụng TMĐT: nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. Nxb Đại học kinh tế Quốc dân.

3. Kazungu, I. (2023). Agripreneurship as a Panacea for Food Security in Tanzania: A Systematic Review. Journal of African Economic Research, 41(2), 113-134.

4. OECD (2019). OECD SME and Entrepreneurship Outlook 2019. Paris: OECD Publishing.

5. UNCTAD (2008). Creative Economy Report 2008. Geneva: United Nations.

6. UN (2022). E-Government Survey 2022: The Future of Digital Government. New York: United Nations Department of Economic and Social Affairs.

Ngày nhận bài: 14/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/7/2025; Ngày duyệt đăng: 25/7/2025