NCS Lê Phước Quang

Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh

Tóm tắt

Qua kết khảo sát đối với 350 người dân sau giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế, nghiên cứu đánh giá thực trạng việc đảm bảo các nguồn lực sinh kế cho người dân sau giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số người dân đều hài lòng với đền bù sau giải phóng mặt bằng, nhưng việc đảm bảo sinh kế cho người dân tái định cư cũng đang gặp phải một số khó khăn, hạn chế. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo các nguồn lực sinh kế cho người dân tại đây.

Từ khóa: Đảm bảo các nguồn lực sinh kế, người dân, giải phóng mặt bằng, di tích Kinh thành Huế

Summary

Based on a survey of 350 residents affected by the site clearance of the Hue Imperial Citadel, this study evaluates the current situation of ensuring livelihood resources for resettled communities. The findings indicate that while the majority of residents are satisfied with the compensation received, challenges and limitations remain in stabilizing and sustaining livelihoods after resettlement. Accordingly, the study proposes several solutions to strengthen the provision of livelihood resources for residents following site clearance.

Keywords: Ensuring livelihood resources, residents, site clearance, Hue Imperial Citadel

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, Cố đô Huế vẫn còn lưu giữ những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Từ khi được công nhận Di sản Văn hóa thế giới năm 1993, Huế đã tăng cường công tác quản lý di tích, quản lý chặt chẽ sử dụng đất, xây dựng và chống việc gia tăng dân số cơ học vào vùng di tích lịch sử. Năm 2019, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là TP. Huế) khởi động Đề án di dời dân cư, giải phóng mặt bằng Khu vực I di tích Kinh thành Huế với tổng mức đầu tư hơn 4.000 tỷ đồng, chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, từ năm 2019-2023, tiến hành di dời dân cư, giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế gồm 11 khu vực; Giai đoạn 2, từ năm 2023-2025, di dời dân cư, giải phóng mặt bằng phạm vi 19 khu vực. Tổng cộng có 4.915 hộ dân phải di dời để trả lại mặt bằng, đến nay việc di dời đã gần hoàn tất (Phúc Đạt & Nguyễn Lân, 2024). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện di dời, giải phóng mặt bằng, việc đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân sau giải phóng mặt bằng Khu di tích là vấn đề quan trọng được đặt ra.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Về số liệu thứ cấp: được thu thập từ báo cáo của các cơ quan (UBND TP. Huế, các phòng/ban liên quan, Trung tâm phát triển quỹ đất TP. Huế; Đảng uỷ, các tổ chức chính trị xã hội các phường liên quan) và các nguồn thống kê của địa phương. Các thông tin này giúp cho nhóm nghiên cứu có cơ sở đánh giá kết quả về sinh kế sau tái định cư khu vực di tích Kinh thành Huế.

Về số liệu sơ cấp: Số liệu được thu thập qua điều tra điển hình đối với 350 hộ dân sau tái định cư ở phường Hương Sơ và thảo luận với các hộ dân. Kết quả có 322 phiếu khảo sát hợp lệ được đưa vào phân tích dữ liệu. Các thông tin sẽ được thu thập và tổng hợp qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp. Phần mềm EXELL để xử lý số liệu điều tra. Thời gian khảo sát được tiến hành trong tháng 6/2025.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Về đảm bảo tiếp cận nguồn vốn tự nhiên của người dân sau giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế

Bảng 1: Mức độ hài lòng với đền bù sau giải phóng mặt bằng

Chỉ tiêu

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Rất hài lòng

55

17,1

Hài lòng

203

63,0

Ít hài lòng

47

14,6

Không hài lòng

16

5,0

Rất không hài lòng

1

0,3

Tổng

322

100

Nguồn: Số liệu khảo sát năm (2025)

Bảng 1 cho thấy mức độ hài lòng với đền bù sau giải phóng mặt bằng. Cụ thể, mức độ Rất hài lòng và Hài lòng chiếm tới 80,1% (258/322 hộ). Điều này cho thấy, phần lớn người dân đồng thuận với chính sách đền bù, cảm thấy công bằng và phù hợp. Tuy nhiên, với mức độ Ít hài lòng, Không hài lòng, Rất không hài lòng vẫn chiếm tổng cộng 19,9% (64/322 hộ). Mặc dù là thiểu số, nhưng điều này cho thấy chính sách chưa đáp ứng hết nhu cầu hoặc kỳ vọng của tất cả người dân.

Kết quả phỏng vấn hộ dân cũng cho thấy, lý do chưa đạt được sự hài lòng như kỳ vọng do mức đền bù còn thấp, chưa sát giá thị trường. Chính điều này gây khó khăn thiếu kinh phí khi người dân khi xây nhà mới, họ phải vay thêm và càng gây khó khăn cho cuộc sống người dân khi bắt đầu cuộc sống mới ở khu tái định cư.

Bảng 2: Diện tích đất sản xuất trước giải phóng mặt bằng

Chỉ tiêu

Số lượng

Tỷ lệ (%)

22

5,7

Không

300

94,3

Total

322

100,0

Nguồn: Số liệu khảo sát năm (2025)

Theo kết quả tại Bảng 2, có đến 94,3% số hộ (300/322 hộ) không có đất sản xuất, chỉ có 5,7% (22 hộ) sở hữu đất. Điều này cho thấy, phần lớn cư dân sống trong khu vực di dời chủ yếu phụ thuộc vào lao động phi nông nghiệp, dịch vụ nhỏ lẻ, hoặc các nguồn thu nhập khác chứ không dựa vào sản xuất nông nghiệp. Việc thiếu quỹ đất sản xuất vốn đã là một hạn chế lớn trong chiến lược sinh kế của người dân ngay cả trước khi di dời. Như vậy, quá trình giải phóng mặt bằng gần như không tạo ra sự xáo trộn lớn về mặt mất đất sản xuất, nhưng lại đặt ra thách thức trong việc định hình sinh kế mới cho cộng đồng cư dân này.

Theo khảo sát về mức độ khó khăn khi thiếu đất sản xuất của người dân, có tới 87,7% số hộ thừa nhận gặp khó khăn; chỉ có 12,3% cho rằng ít bị ảnh hưởng. Điều này phản ánh một thực tế, dù đại đa số hộ trước đó không có đất sản xuất, nhưng việc thiếu cơ hội tiếp cận đất đai sau tái định cư vẫn tạo nên những bất lợi nhất định cho họ. Những khó khăn này có thể liên quan đến việc mất đi khả năng tự cung tự cấp một phần lương thực, mất một nguồn thu nhập bổ sung hoặc mất cơ hội duy trì những mô hình sản xuất nhỏ phục vụ đời sống.

Như vậy, đất đai dù không phải là nguồn sinh kế chính yếu của phần lớn hộ dân trước giải phóng mặt bằng vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo “mạng lưới an toàn sinh kế”. Khi không có đất sản xuất, người dân buộc phải phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường lao động và các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Điều này làm gia tăng tính dễ bị tổn thương của họ trước biến động kinh tế - xã hội. Đặc biệt, nhóm hộ vốn có đất nay mất đi sẽ gặp tác động trực tiếp và cần sự hỗ trợ nhiều hơn để chuyển đổi sinh kế.

Về đảm bảo tiếp cận nguồn vốn xã hội của người dân sau giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế

Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn các hộ dân sau tái định cư vẫn duy trì được mức độ gắn bó trong gia đình ở trạng thái ổn định (79,3%), thậm chí có tới 19,7% hộ dân cho rằng sự gắn bó trong gia đình tăng lên so với trước. Điều này phản ánh tác động tích cực của việc chia sẻ, nâng đỡ về tinh thần và vật chất giữa các thành viên, giúp các hộ gia đình giảm bớt căng thẳng, tạo động lực vượt qua khó khăn trong giai đoạn thay đổi môi trường sống.

Nguồn vốn xã hội không chỉ dừng lại ở phạm vi gia đình, mà còn được mở rộng thông qua các mối quan hệ cộng đồng, góp phần duy trì mạng lưới hỗ trợ, chia sẻ thông tin và hợp tác trong sản xuất, tìm kiếm việc làm. Đây là yếu tố quan trọng giúp người dân tránh nguy cơ cô lập và tăng khả năng thích ứng trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, có một bộ phận nhỏ (0,9%) (Bảng 3) cho biết sự gắn bó gia đình giảm sút, phản ánh tác động tiêu cực tiềm ẩn, như mâu thuẫn nội bộ, áp lực kinh tế hay sự khác biệt thế hệ trong thích nghi sau di dời. Điều này cho thấy, vốn xã hội tuy có tác động tích cực, nhưng chưa đủ mạnh để trực tiếp giải quyết vấn đề kinh tế, mà chủ yếu đóng vai trò nền tảng tinh thần và mạng lưới hỗ trợ gián tiếp.

Sau quá trình giải phóng mặt bằng khu di tích Kinh thành Huế và tái định cư tại Khu tái định cư Hương Sơ, mối quan hệ cộng đồng của người dân nhìn chung vẫn được duy trì ổn định và có xu hướng tích cực. Theo kết quả khảo sát, đa số các hộ giữ nguyên mức độ gắn bó với cộng đồng (68,8%) và có tới 24,1% hộ cho rằng họ gắn bó hơn so với trước, phản ánh sự củng cố các mối quan hệ xã hội trong bối cảnh mới. Điều này thể hiện, tái định cư không làm đứt gãy hoàn toàn vốn xã hội cộng đồng, mà trái lại còn mở ra cơ hội cho một bộ phận cư dân thiết lập quan hệ mới, tăng cường sự tương trợ và hợp tác. Đây chính là nền tảng quan trọng giúp người dân chia sẻ thông tin về việc làm, hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cũng như duy trì các hoạt động văn hóa - tín ngưỡng gắn với đời sống cộng đồng.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại một bộ phận nhỏ hộ dân phản ánh sự gắn bó suy giảm, trong đó 6,6% cho rằng, ít gắn bó hơn và 0,6% chưa gắn bó với cộng đồng, cho thấy một số khó khăn trong việc hòa nhập ở môi trường sống mới. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự khác biệt về nghề nghiệp, thu nhập, vị trí tái định cư hoặc do hạn chế trong tham gia các hoạt động xã hội. Điều này đặt ra nguy cơ cô lập xã hội cho một số hộ dân, đồng thời làm giảm khả năng khai thác lợi ích từ mạng lưới cộng đồng.

Theo số liệu khảo sát của người dân sau giải phóng mặt bằng và tái định cư tại Hương sơ về sự tham gia các tổ chức chính trị xã hội, sau khi giải phóng mặt bằng khu di tích Kinh thành Huế và tái định cư ở Hương Sơ, mức độ tham gia của người dân vào các tổ chức chính trị - xã hội còn khá hạn chế. Kết quả khảo sát 322 hộ dân cho thấy, phần lớn người dân không tham gia vào bất kỳ tổ chức nào (chiếm tới 63,1%), trong khi tỷ lệ tham gia Hội Phụ nữ đạt 17,2%, Hội Cựu chiến binh là 6,8%, Hội Nông dân 4,9% và Đoàn Thanh niên chỉ 0,3%. Điều này cũng đồng nghĩa với việc mặc dù một số tổ chức vẫn giữ được vai trò kết nối cộng đồng, đặc biệt là Hội Phụ nữ và Hội Cựu chiến binh, nhưng nhìn chung mức độ gắn kết của người dân với các tổ chức xã hội chưa cao.

Về đảm bảo tiếp cận nguồn vốn vật chất của người dân sau giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế

Kết quả khảo sát chỉ ra, tỷ lệ nhà tự xây chiếm đa số tuyệt đối (84,4%) cho thấy, phần lớn hộ dân đã tận dụng được nguồn tiền bồi thường, hỗ trợ từ Nhà nước hoặc nguồn tích lũy riêng để chủ động tạo dựng chỗ ở lâu dài. Đây là tín hiệu tích cực, phản ánh tinh thần tự chủ, sự quyết tâm an cư và mong muốn ổn định của cộng đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, chất lượng nhà ở trong nhóm này không đồng đều, phụ thuộc vào mức bồi thường và tiềm lực kinh tế của từng hộ. Điều này có thể dẫn đến sự phân hóa giàu - nghèo trong chính cộng đồng tái định cư, khi một số hộ xây dựng được nhà kiên cố khang trang trong khi những hộ khác chỉ dựng được nhà tạm bợ.

Bên cạnh đó, chỉ 5% hộ được bố trí nhà ở do Nhà nước hỗ trợ và 0,9% phải đi thuê nhà. Điều này đặt ra vấn đề về sự bấp bênh của nhóm yếu thế. Nhóm này thường là các hộ nghèo, hộ chính sách hoặc hộ có điều kiện đặc biệt khó khăn, vốn thiếu khả năng tài chính để xây dựng nhà ở và dễ rơi vào nguy cơ tái nghèo nếu không có sự hỗ trợ đồng hành lâu dài.

Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 21,6% (70/324 hộ) đánh giá mức bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước đủ để xây nhà ở khu tái định cư Hương Sơ, trong khi 78,4% (254/324 hộ) cho rằng không đủ. Cấu trúc này phản ánh một khoảng cách tài chính đáng kể giữa chi phí xây dựng nhà ở đạt chuẩn và giá trị hỗ trợ thực nhận, kéo theo các hệ quả dây chuyền đối với tiến trình an cư lạc nghiệp. Với nhóm đủ hỗ trợ, quá trình ổn định diễn ra nhanh, nhà ở hoàn thiện sớm và hộ gia đình có thể chuyển trọng tâm sang khôi phục, đổi mới sinh kế, đầu tư giáo dục con cái, gia tăng vốn xã hội tại nơi ở mới.

Ở mức độ hài lòng đối với chính sách đền bù, có thể thấy, mức độ hài lòng của người dân đối với chính sách nhà ở sau giải phóng mặt bằng phản ánh một bức tranh đa chiều vừa mang tính tích cực vừa chứa đựng những hạn chế cần được quan tâm. Phần lớn hộ dân rất hài lòng (15,2%) và hài lòng (59,9%), tức là có đến hơn 3/4 số hộ đánh giá chính sách hỗ trợ đã giúp họ cơ bản giải quyết được nhu cầu an cư, từ đó tạo điều kiện để ổn định đời sống, tái thiết sinh kế và hòa nhập cộng đồng tại khu tái định cư. Bên cạnh đó, tỷ lệ ít hài lòng (22,7%) và không hài lòng (2,2%) cũng không hề nhỏ, phản ánh thực tế rằng, một bộ phận cư dân vẫn gặp nhiều khó khăn khi chuyển sang nơi ở mới. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ sự chênh lệch giữa mức hỗ trợ, đền bù với chi phí xây dựng thực tế, dẫn đến gánh nặng tài chính, chất lượng nhà ở không đồng đều, thậm chí một số hộ rơi vào cảnh nợ nần. Nhóm ít hài lòng và không hài lòng thường là các hộ nghèo, hộ đông nhân khẩu hoặc có xuất phát điểm kinh tế thấp, nên khả năng tận dụng chính sách bị hạn chế, từ đó làm nảy sinh tâm lý bất mãn, cảm giác thiệt thòi, khó hòa nhập vào cộng đồng tái định cư. Như vậy, mức độ hài lòng không chỉ phản ánh sự đánh giá đối với chính sách nhà ở, mà còn gắn chặt với khả năng an cư và phát triển sinh kế lâu dài của từng nhóm hộ dân.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Nhằm tiếp tục đảm bảo sinh kế cho các hộ dân sau giải phóng mặt bằng di tích Kinh thành Huế, theo tác giả, cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, giải pháp về nguồn lực con người

Theo đó, cần nâng cao trình độ của người dân, không chỉ là nhiệm vụ trước mắt nhằm giải quyết việc làm, mà còn là chiến lược lâu dài để phòng ngừa tái nghèo, giảm bất bình đẳng xã hội, đồng thời tạo nền tảng cho quá trình phát triển đô thị di sản bền vững. Trong đó cần chú ý đến các vấn đề như:

- Nâng cao trình độ học vấn cơ bản: việc bổ sung kiến thức phổ thông và tổ chức các lớp bổ túc văn hóa là cần thiết. Đây là bước nền tảng giúp họ tiếp cận tốt hơn với các chương trình đào tạo nghề, tiếp nhận thông tin thị trường lao động và đặc biệt là hình thành tâm thế học tập suốt đời. Cụ thể, cần triển khai các lớp học cộng đồng ngay tại khu tái định cư, theo khung giờ linh hoạt (buổi tối, cuối tuần), vừa đáp ứng nhu cầu học tập, vừa không ảnh hưởng đến công việc mưu sinh hằng ngày.

- Đào tạo nghề gắn với nhu cầu sinh kế mới: việc mất đất sản xuất khiến người dân không thể tiếp tục làm nông nghiệp, do đó cần thiết kế chương trình đào tạo nghề phi nông nghiệp, với trọng tâm nên là những ngành nghề có nhu cầu lớn và phù hợp với bối cảnh đô thị di sản Huế như: du lịch - dịch vụ; nghề thủ công truyền thống và dịch vụ hỗ trợ du lịch; nghề dịch vụ đô thị… Song, để xây dựng chính sách đào tạo nghề gắn với sinh kế mới cho người dân, cần khảo sát thực tiễn đời sống, việc làm, nhu cầu và năng lực của chính cộng đồng nơi tái định cư. Bên cạnh đó, cơ cấu lao động phân bổ theo nhóm tuổi và giới tính cũng có ý nghĩa quan trọng: thanh niên tuy còn trẻ và dễ thích nghi, nhưng lại thiếu định hướng nghề nghiệp; trong khi trung niên và người cao tuổi thường bảo thủ, ít sẵn sàng thay đổi nghề nghiệp. Tỷ lệ lao động tự do cao cũng đặt ra nhu cầu đào tạo gắn với nghề nghiệp phù hợp về sức khỏe, thời gian và tính ổn định. Bên cạnh yếu tố kinh tế, cần phân tích các yếu tố xã hội văn hóa tác động đến khả năng học nghề và thích nghi nghề mới.

- Nâng cao kỹ năng số và tư duy thích ứng: cần có chương trình đào tạo kỹ năng số cơ bản như sử dụng điện thoại thông minh, mạng xã hội, thương mại điện tử. Nhờ đó, họ có thể mở rộng cách thức mưu sinh như bán hàng online, quảng bá dịch vụ du lịch cộng đồng hoặc tham gia lao động trực tuyến. Đây là hướng đi phù hợp với xu thế chuyển đổi số, đồng thời giúp người dân tiếp cận thị trường rộng hơn, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của lao động tay chân bấp bênh.

Thứ hai, giải pháp về nguồn lực xã hội

- Tiếp tục nâng cao niềm tin xã hội, trong đó chính quyền cần thực hiện chính sách minh bạch, công khai trong việc hỗ trợ người dân, đồng thời tạo cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo và cộng đồng. Các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao, hội họp cộng đồng nên được tổ chức định kỳ để tăng cường sự tương tác và gắn kết. Khi niềm tin được củng cố, người dân sẽ yên tâm hơn trong việc tham gia các khóa đào tạo nghề, vay vốn khởi nghiệp và hợp tác trong các dự án phát triển sinh kế.

- Tiếp tục gắn kết, củng cố chuẩn mực và giá trị cộng đồng. Cộng đồng tái định cư cần khôi phục và xây dựng lại các chuẩn mực ứng xử phù hợp với môi trường mới. Những giá trị như đoàn kết, nghĩa tình, tôn trọng lẫn nhau và trách nhiệm xã hội cần được nhấn mạnh thông qua các chương trình giáo dục cộng đồng, sinh hoạt tổ dân phố và các hoạt động phong trào.

- Phát động phong trào xã hội gắn với phát triển kinh tế - văn hóa. Phong trào xã hội không chỉ mang ý nghĩa tinh thần mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo động lực phát triển sinh kế. Các phong trào “chủ nhật xanh”, “khu dân cư văn minh” nên được triển khai sâu rộng, gắn với lợi ích thiết thực của người dân. Đồng thời, cần lồng ghép phong trào xã hội với phát triển du lịch cộng đồng, dịch vụ đô thị, và các hoạt động bảo tồn văn hóa Huế. Nhờ đó, người dân vừa được nâng cao đời sống tinh thần, vừa có thêm cơ hội phát triển kinh tế.

- Phát huy vai trò tổ chức xã hội và đoàn thể. Hội Phụ nữ có thể hỗ trợ phụ nữ tái định cư trong việc tiếp cận vốn vay, học nghề nấu ăn, may mặc, phát triển dịch vụ du lịch. Đoàn Thanh niên có thể tổ chức các chương trình khởi nghiệp sáng tạo, hướng dẫn kỹ năng số và phát triển dịch vụ du lịch cộng đồng. Hội Cựu chiến binh có thể đảm nhận vai trò giữ gìn an ninh trật tự, giáo dục truyền thống, củng cố tinh thần đoàn kết. Mặt trận Tổ quốc và Hội Khuyến học có thể hỗ trợ con em hộ tái định cư trong học tập, tránh tình trạng tái nghèo do thiếu cơ hội giáo dục.

Thứ ba, giải pháp về nguồn lực tự nhiên

- Sau khi người dân được di dời để bảo tồn di tích Kinh thành Huế và tái định cư tại Hương Sơ, vấn đề then chốt đặt ra là khai thác và quản lý hiệu quả nguồn vốn tự nhiên nhằm đảm bảo sinh kế bền vững.

- Đối với đất đai, đây là tài sản cơ bản nhất để hộ dân an cư và đồng thời duy trì sinh kế. Việc đền bù đất cần được thực hiện công bằng, minh bạch, với giá trị sát với thị trường, tránh tình trạng người dân bị thiệt thòi hoặc mất niềm tin vào chính sách. Không chỉ dừng lại ở việc cấp đất ở, cần có cơ chế quy hoạch bổ sung quỹ đất sản xuất xen kẽ trong khu tái định cư hoặc vùng phụ cận, giúp các hộ vốn quen nghề nông có điều kiện tiếp tục canh tác, trồng rau màu, cây dược liệu, hoa cảnh… nhằm vừa tạo thu nhập, vừa giữ gìn bản sắc nông nghiệp truyền thống của cư dân Huế. Cùng với đó, việc hoàn thiện thủ tục pháp lý, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh chóng sẽ giúp người dân có tài sản thế chấp để vay vốn, mở rộng sinh kế và yên tâm định cư lâu dài.

- Đối với hạ tầng khu tái định cư Hương Sơ đóng vai trò quyết định đến chất lượng cuộc sống và khả năng phục hồi sinh kế. Một hệ thống hạ tầng đồng bộ bao gồm điện, nước sạch, thoát nước, đường giao thông nội bộ, trường học, trạm y tế, nhà sinh hoạt cộng đồng không chỉ đảm bảo đời sống hàng ngày mà còn mở ra cơ hội phát triển kinh tế hộ gia đình. Đặc biệt, cần quan tâm đến thiết kế chống ngập vì khu vực dễ chịu ảnh hưởng của lũ lụt. Việc bố trí chợ dân sinh, khu đất công cộng để làm vườn cộng đồng hoặc điểm sản xuất tập trung sẽ tạo điều kiện để người dân tiếp tục gắn bó với nông nghiệp đô thị. Hạ tầng xanh như công viên, vườn cây, không chỉ cải thiện môi trường sống mà còn trở thành nguồn lực cho các hoạt động dịch vụ, du lịch cộng đồng và nâng cao gắn kết xã hội.

Thứ tư, giải pháp về nguồn lực vật chất

- Hỗ trợ về công cụ và phương tiện sản xuất. Người dân Hương Sơ có truyền thống canh tác, buôn bán nhỏ và một số nghề thủ công truyền thống. Vì vậy, ngoài đất ở, việc hỗ trợ trang thiết bị sản xuất hay các phương tiện phục vụ tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ là hết sức cần thiết. Với những hộ chuyển hướng sang buôn bán hoặc dịch vụ, các phương tiện cơ bản như xe máy, xe ba gác, tủ đông, máy khâu… chính là nguồn lực vật chất trực tiếp giúp họ tạo thu nhập. Nếu không được bổ sung kịp thời, sự thiếu hụt công cụ và phương tiện sẽ làm cho quá trình ổn định sinh kế trở nên khó khăn, dễ dẫn tới tái nghèo.

- Có chính sách hỗ trợ về tài sản cố định và tích lũy hộ gia đình. Ngoài những nhu cầu cơ bản, người dân cần có khả năng mua sắm và tích lũy các tài sản lâu dài như phương tiện sản xuất, máy móc, thiết bị sinh hoạt. Đây là điều kiện quan trọng để hộ gia đình vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu và xây dựng nền tảng phát triển kinh tế lâu dài. Các chương trình tín dụng vi mô và vay ưu đãi có thể đóng vai trò thiết yếu trong việc giúp người dân tăng cường khả năng tích lũy vật chất. Khi hộ gia đình có thể tích lũy và tái đầu tư, họ sẽ chủ động hơn trong việc mở rộng sản xuất và phòng ngừa rủi ro.

Thứ năm, giải pháp về nguồn lực vốn

Đây là yếu tố then chốt vì vốn quyết định khả năng đầu tư sinh kế mới, phục hồi sản xuất và ổn định đời sống. Để người dân đảm bảo về nguồn tài chính sau tái định cư, cần chú ý các khía cạnh như:

- Hỗ trợ vốn trực tiếp sau tái định cư. Sau khi nhận đền bù và chuyển về khu tái định cư Hương Sơ, nhiều hộ dân có nguy cơ sử dụng hết số tiền bồi thường mà không tạo ra nguồn thu bền vững. Vì vậy, cần có chính sách hướng dòng vốn bồi thường vào tái đầu tư như hỗ trợ hộ dân lập kế hoạch chi tiêu, tư vấn quản lý tài chính hộ gia đình, đồng thời khuyến khích họ dành một phần vốn để tái tạo sinh kế thay vì tiêu dùng ngắn hạn. Nhà nước có thể tổ chức các khóa tập huấn về quản lý tài chính hộ gia đình, gắn với việc sử dụng vốn hiệu quả.

- Tiếp cận tín dụng ưu đãi và vi mô. Người dân tái định cư thường khó vay vốn do thiếu tài sản thế chấp, đặc biệt khi đang trong giai đoạn ổn định cuộc sống. Do đó, chính quyền địa phương và Ngân hàng Chính sách xã hội cần triển khai gói tín dụng ưu đãi, cho vay nhỏ lẻ 20-50 triệu đồng/hộ với lãi suất thấp để đầu tư vào sản xuất nhỏ, buôn bán hoặc nghề truyền thống. Đồng thời, mô hình tổ nhóm tiết kiệm và vay vốn (theo Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên) cũng là giải pháp hiệu quả, vừa giúp kiểm soát rủi ro, vừa tăng tính gắn kết cộng đồng.

- Xây dựng quỹ hỗ trợ sinh kế và quỹ quay vòng cộng đồng. Bên cạnh tín dụng ngân hàng, cần hình thành quỹ hỗ trợ sinh kế từ nguồn ngân sách địa phương, doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ. Quỹ này có thể cho người dân vay quay vòng để đầu tư nông nghiệp đô thị, trồng cây dược liệu, làm nghề thủ công, hoặc phát triển dịch vụ gắn với du lịch di sản Huế.

- Khuyến khích tích lũy và bảo hiểm tài chính. Một trong những điểm yếu của người dân sau tái định cư là thiếu tích lũy và dễ rơi vào tình trạng tái nghèo sau cú sốc, như ốm đau hoặc thiên tai. Do đó, ngoài việc khuyến khích hộ dân tiết kiệm một phần thu nhập, cần mở rộng tiếp cận các gói bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm y tế và bảo hiểm vi mô.

- Thu hút doanh nghiệp và tổ chức xã hội tham gia. Doanh nghiệp địa phương, quỹ từ thiện, và các tổ chức quốc tế có thể đồng hành trong việc cung cấp vốn, đồng tài trợ hoặc hỗ trợ kỹ thuật. Nếu biết gắn kết sinh kế tái định cư với du lịch di sản và phát triển đô thị xanh, có thể hình thành các mô hình hợp tác công - tư để huy động vốn ngoài ngân sách, giúp cộng đồng người dân có thêm nguồn lực phát triển.

Tài liệu tham khảo:

1. Bùi Ngọc Long (2019). Hỗ trợ sinh kế cho cư dân “sống treo” trên kinh thành Huế sau di dời, https://thanhnien.vn/ho-tro-sinh-ke-cho-cu-dan-song-treo-tren-kinh-thanh-hue-sau-di-doi-185828772.htm.

2. Nguyễn Hiếu (2025). Tiếp tục di dời dân cư ra khỏi khu vực Kinh thành Huế, https://thanhuyhue.vn/tin-tuc-trong-tinh/chinh-tri-xa-hoi/tiep-tuc-di-doi-dan-cu-ra-khoi-khu-vuc-kinh-thanh-hue.html.

3. Phúc Đạt – Nguyễn Lân (2024). Được gì từ cuộc di dân lịch sử khỏi Kinh thành Huế, https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/duoc-gi-tu-cuoc-di-dan-lich-su-khoi-kinh-thanh-hue-1435536.ldo.

Ngày nhận bài: 29/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/9/2025; Ngày duyệt đăng: 29/9/2025