Các yếu tố ảnh hưởng tới thương mại giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh
Trần Mạnh Tùng
Viện Nghiên cứu Châu Âu và Châu Mỹ
Tóm tắt
Nghiên cứu vận dụng mô hình lực hấp dẫn (gravity model) và phương pháp ước lượng tối đa hóa khả năng (PPML) với dữ liệu dạng bảng giai đoạn 2000-2021 cho 39 đối tác thương mại lớn của Việt Nam để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng. Kết quả cho thấy, GDP là động lực phổ quát, trong khi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và công nghệ thông tin (ICT) có ảnh hưởng đặc thù tích cực, ngược với, biến động tiêu cực của tỷ giá thực. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng chính sách để nâng cao tính bền vững và ổn định của thương mại Việt Nam - Mỹ Latinh.
Từ khóa: Mô hình lực hấp dẫn, thương mại, Việt Nam - Mỹ Latinh.
Summary
This study applies the gravity model and the Poisson Pseudo-Maximum Likelihood (PPML) estimation method to panel data covering the period 2000–2021 for Viet Nam’s 39 major trading partners. The objective is to analyze the determinants of trade between Viet Nam and Latin American countries in the context of deepening global economic integration. The findings indicate that GDP serves as a universal driving force, while Free Trade Agreements (FTAs) and information and communication technology (ICT) exert specific positive effects. In contrast, fluctuations in the real exchange rate have adverse impacts. Based on these results, the study advances policy recommendations to strengthen the sustainability and stability of trade between Viet Nam and Latin America.
Keywords: Gravity model, international trade, Viet Nam-Latin America.
GIỚI THIỆU
Những thập niên gần đây, Việt Nam đã đạt được bước tiến quan trọng trong việc mở rộng thị trường, gia tăng kim ngạch xuất khẩu và tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) hay các đối tác châu Á, khu vực Mỹ Latinh nổi lên như một không gian kinh tế tiềm năng, sở hữu quy mô dân số lớn, nguồn tài nguyên phong phú và nhu cầu nhập khẩu ngày càng tăng.
Mặc dù khoảng cách địa lý xa xôi và sự khác biệt về thể chế, kinh tế - xã hội đặt ra nhiều thách thức, quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ Latinh vẫn ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể, đặc biệt khi một số hiệp định thương mại quan trọng được ký kết như FTA Việt Nam - Chile (2014) hay Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2019. Trong bối cảnh đó, việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại song phương giữa Việt Nam và khu vực này có ý nghĩa không chỉ về mặt học thuật, nhằm kiểm chứng các lý thuyết thương mại quốc tế hiện đại như mô hình lực hấp dẫn (gravity model), mà còn mang tính thực tiễn, góp phần hoạch định chính sách thương mại và hội nhập kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn tới.
TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH
Tổng kim ngạch thương mại 2 chiều tăng từ khoảng 245 triệu USD năm 2000 lên 15,6 tỷ USD năm 2020, phản ánh xu hướng mở rộng thị trường, đa dạng hóa đối tác và tính bổ sung về cơ cấu hàng hóa giữa 2 bên, như: điện tử, dệt may, thủy sản từ Việt Nam; nông sản, nguyên liệu thô từ Mỹ Latinh.
Từ 2020 đến nay, quy mô giao thương tiếp tục mở rộng bất chấp cú sốc kinh tế do đại dịch COVID-19 và biến động địa chính trị toàn cầu. Năm 2021, kim ngạch 2 chiều Việt Nam - Mỹ Latinh đạt 21,4 tỷ USD, trong đó: xuất khẩu tăng 46,4% so với 2020 lên 12,5 tỷ USD, trong khi nhập khẩu đạt 8,9 tỷ USD, tăng 20,2% . Năm 2022, thương mại 2 chiều tiếp tục nhích lên khoảng 23 tỷ USD, cho thấy xu hướng phục hồi và mở rộng tại thị trường Mỹ Latinh của Việt Nam. Năm 2023, ghi nhận độ trễ điều chỉnh theo chu kỳ toàn cầu, 8 tháng đầu năm, kim ngạch Việt Nam - Mỹ Latinh đạt 13,4 tỷ USD, giảm 14% so với cùng kỳ 2022.
Ở nhóm thị trường CPTPP, giao thương với Peru đạt 486 triệu USD năm 2023 và duy trì nhịp tích cực trong 9 tháng năm 2024, qua đó củng cố vai trò của các FTA trong việc duy trì đà phục hồi sau giai đoạn suy yếu của cầu toàn cầu. Cùng chiều với bức tranh thương mại chung - tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước năm 2024 tăng 15,4% - các chỉ dấu theo thị trường cho thấy dư địa mở rộng tại Mỹ Latinh vẫn đáng kể nếu kết hợp tận dụng FTA và nâng cao năng lực logistics - số hóa chuỗi cung ứng.
Có thể nói, giai đoạn sau năm 2020 phản ánh 3 đặc trưng nổi bật của thương mại Việt Nam - Mỹ Latinh: (i) tăng trưởng quy mô với trụ cột là các đối tác lớn (Brazil, Mexico, Argentina, Chile), (ii) vai trò “đệm” của các FTA (VCFTA với Chile, CPTPP với Mexico/Peru/Chile) trong bối cảnh cú sốc chu kỳ, và (iii) sự dịch chuyển theo hướng tận dụng công nghệ, thương mại điện tử và chuỗi cung ứng linh hoạt để vượt qua khoảng cách địa lý, những yếu tố hứa hẹn duy trì đà tăng trưởng trong trung hạn.
PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Mô hình lực hấp dẫn trong thương mại
Khởi nguồn từ tương đồng với định luật vạn vật hấp dẫn trong vật lý, mô hình này cho rằng dòng chảy thương mại giữa 2 quốc gia tỷ lệ thuận với quy mô kinh tế (GDP, dân số) và tỷ lệ nghịch với khoảng cách địa lý . Mô hình đã được mở rộng nhằm đưa vào các yếu tố thể chế, chính sách thương mại, ngôn ngữ, biên giới chung, hay các FTA (Bergstrand, 1985).
Trong đó: Fij là giá trị thương mại song phương giữa quốc gia i và quốc gia j; Yi và Yj là GDP thực của các quốc gia i và j; Dij là khoảng cách giữa 2 quốc gia; và a là hằng số.
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định mô hình này không chỉ phù hợp cho phân tích thương mại song phương mà còn cho cả dịch chuyển vốn, lao động và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (Head & Mayer, 2014). Trong bối cảnh toàn cầu hóa, mô hình lực hấp dẫn vì vậy trở thành công cụ thực chứng hữu hiệu để đánh giá các yếu tố tác động tới quan hệ thương mại quốc tế nói chung và thương mại giữa Việt Nam - Mỹ Latinh nói riêng.
Dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng số liệu dạng bảng (panel data) hàng năm trong giai đoạn 2000-2021 từ các nguồn (Ngân hàng thế giới - WB; Quỹ Tiền tệ quốc tế - IMF; Cục Thống kê Việt Nam - GSO…), với Việt Nam là nước xuất khẩu gốc và 39 thị trường đối tác lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và có quan hệ kinh tế - thương mại chặt chẽ trong 2 thập kỷ gần đây.
Sau khi xử lý, dữ liệu gồm n = 39 đối tác, T = 22 năm, tạo thành 773 quan sát.
Mô hình ước lượng
Trên cơ sở dữ liệu bảng thương mại song phương giữa Việt Nam và 39 đối tác giai đoạn 2000-2021. Biến phụ thuộc là kim ngạch thương mại song phương (ltrade). Các biến giải thích chính bao gồm: GDP (lgdp_d), dân số (lpop_d), khoảng cách địa lý (ldist), tỷ giá thực song phương (lrer_bilat), mức độ phổ cập Internet (lict_d), độ mở thương mại (lopen_d), FTA (fta_dummy) và các biến giả khủng hoảng (2007-2008, 2020-2021).
ltrade = β0 + β1lgdp_d + β2lpop_d + β3ldist + β4lrer_bilat + β5licd_d + β6lopen_d + β7fta_dummy + β8year_t + β9Latin
Để xử lý vấn đề dị phương sai và hiện tượng thương mại bằng 0 trong dữ liệu, mô hình được ước lượng bằng phương pháp ước lượng tối đa hóa khả năng (Poisson Pseudo Maximum Likelihood - PPML) với hiệu ứng cố định theo cặp và theo năm, biến giả Latin và các biến tương tác giữa nhóm này với những yếu tố giải thích chính. Cách tiếp cận này cho phép so sánh mức độ ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế - thể chế giữa nhóm Mỹ Latinh và các đối tác khác, qua đó chỉ ra những đặc thù quan trọng của mối quan hệ thương mại khu vực. Các tóm tắt thống kê về các biến trong mô hình được thể hiện tại Bảng 1 .
Bảng 1: Tóm tắt thống kê về các biến số trong mô hình
(Số liệu trong bảng được trình bày theo chuẩn quốc tế)
|
Variable
|
Obs
|
Mean
|
SD
|
Min
|
Max
|
|---|---|---|---|---|---|
|
Ldist
|
793
|
9.182
|
0.399
|
7.913
|
9.883
|
|
lgdp_d
|
793
|
19.405
|
1.793
|
15.181
|
23.785
|
|
lict_d
|
793
|
3.884
|
0.708
|
0.577
|
4.590
|
|
lopen_d
|
793
|
-6.556
|
1.240
|
-12.205
|
-2.798
|
|
lpop_d
|
793
|
9.593
|
1.698
|
5.944
|
14.160
|
|
lrer_bilat
|
773
|
8.517
|
2.229
|
1.683
|
11.175
|
|
Ltrade
|
793
|
12.849
|
2.415
|
4.981
|
18.892
|
|
fdi_dummy
|
793
|
0.922
|
0.269
|
0.000
|
1.000
|
|
fta_dummy
|
793
|
0.101
|
0.301
|
0.000
|
1.000
|
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Lựa chọn 39 quốc gia bởi không chỉ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, mà còn phản ánh được sự đa dạng về đặc điểm kinh tế, thể chế và địa lý, từ các nền kinh tế phát triển (Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc) đến các nền kinh tế mới nổi (Trung Quốc, Ấn Độ) và các thị trường tiềm năng khác. Mục tiêu chính là làm nổi bật thương mại giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh, cho phép phân biệt rõ tác động của các yếu tố như GDP, FTA, ICT, tỷ giá hay FDI so với các đối tác khác.
Lựa chọn mô hình ước lượng
Nghiên cứu ban đầu tiến hành so sánh mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Kết quả kiểm định Hausman cho thấy giá trị thống kê rất lớn (χ² = 693,4; p < 0,01), hàm ý rằng FEM là lựa chọn phù hợp hơn REM trong khung log-linear. Tuy nhiên, cả FEM và REM đều tồn tại hạn chế: FEM loại bỏ các biến bất biến theo cặp, còn REM có nguy cơ không nhất quán nếu giả định độc lập không thỏa mãn.
Do vậy, nghiên cứu lựa chọn phương pháp PPML với hiệu ứng cố định theo cặp và năm (two-way FE) theo khuyến nghị rộng rãi trong tài liệu trọng lực nhờ khả năng xử lý tốt hiện tượng dị phương sai, tận dụng cả các quan sát thương mại bằng 0 và cung cấp ước lượng bền vững hơn so với log-linear OLS. Đặc biệt, để làm nổi bật tác động đối với Mỹ Latinh, nghiên cứu đưa vào biến giả nhóm (Latin dummy) và các biến tương tác giữa Latin dummy và các yếu tố giải thích quan trọng, qua đó cho phép so sánh tác động giữa nhóm Mỹ Latinh và các đối tác khác.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Kết quả ước lượng từ mô hình PPML (Bảng 2) cho thấy một số nhân tố có ảnh hưởng khác biệt giữa nhóm đối tác Mỹ Latinh và các quốc gia khác.
Thứ nhất, lgdp_d là nhân tố có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê cao. Cụ thể, hệ số ước lượng đạt 1,34 và có ý nghĩa ở mức 1%, hàm ý rằng khi GDP của đối tác tăng 1% thì thương mại song phương với Việt Nam tăng trung bình 1,34%. Đây là kết quả nhất quán với kỳ vọng lý thuyết gravity, khẳng định vai trò động lực của quy mô kinh tế trong thúc đẩy thương mại. Ngược lại, lpop_d có hệ số âm (-3,70) nhưng không có ý nghĩa thống kê, gợi ý rằng quy mô dân số chưa phản ánh trực tiếp sức mua hàng hóa từ Việt Nam nếu không đi kèm với mức thu nhập và cơ cấu tiêu dùng phù hợp.
Thứ hai, các FTA thể hiện sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm đối tác. Biến FTA dummy không có ý nghĩa thống kê, cho thấy các FTA toàn cầu chưa tạo ra tác động rõ ràng trong giai đoạn nghiên cứu. Điều này có thể lý giải bởi thời gian thực thi còn ngắn (như EVFTA có hiệu lực từ năm 2020; UKVFTA từ năm 2021) nên chưa đủ dài để phản ánh thành quả trong thương mại. Tuy nhiên, khi xem xét riêng nhóm Mỹ Latinh, biến tương tác fta_latin lại mang hệ số dương (0,36) và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Kết quả này khẳng định rằng các hiệp định như FTA Việt Nam - Chile (2014) và CPTPP với Mexico, Peru, Chile (2019) đã góp phần thúc đẩy đáng kể thương mại Việt Nam - Mỹ Latinh.
Thứ ba, lrer_bilat không có ý nghĩa trong toàn bộ mẫu, nhưng với nhóm Mỹ Latinh thì tác động lại rõ rệt. Biến tương tác lrer_latin mang hệ số âm (-1,29) và có ý nghĩa ở mức 1%, cho thấy biến động tỷ giá ở khu vực này có xu hướng gây bất lợi cho thương mại song phương. Điều này phản ánh sự nhạy cảm của thương mại Việt Nam - Mỹ Latinh trước rủi ro tỷ giá, đặc biệt trong bối cảnh nhiều nền kinh tế Mỹ Latinh thường xuyên đối mặt với tình trạng mất ổn định tiền tệ.
Thứ tư, chỉ số ICT cũng cho thấy sự khác biệt quan trọng. Với toàn bộ mẫu, biến lict_d có hệ số âm (-0,59) và có ý nghĩa ở mức 5%, phản ánh rằng mức độ phát triển ICT của nhiều đối tác chưa thực sự tạo điều kiện cho thương mại với Việt Nam. Tuy nhiên, với Mỹ Latinh, biến lict_latin lại mang hệ số dương lớn (1,28) và có ý nghĩa cao ở mức 1%. Kết quả này cho thấy ICT đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy thương mại với Mỹ Latinh, do khoảng cách địa lý xa khiến việc kết nối thương mại phụ thuộc nhiều vào hạ tầng công nghệ và thương mại điện tử xuyên biên giới.
Thứ năm, FDI của đối tác vào Việt Nam (fdi_dummy) không có ý nghĩa thống kê trong cả hai nhóm. Hệ số âm (-0,11) gợi ý rằng FDI từ các nước này chưa thể hiện tác động tích cực đến thương mại song phương trong giai đoạn nghiên cứu. Một khả năng là do quy mô FDI từ Mỹ Latinh và một số khu vực khác còn hạn chế, chưa đủ lớn để tạo ra hiệu ứng thương mại bổ sung.
Bảng 2: Kết quả ước lượng từ mô hình PPML
(Số liệu trong bảng được trình bày theo chuẩn quốc tế)
Poisson estimation, Dep. Var.: trade_bilateral; Observations: 773; Fixed-effects: pair_id: 39, year: 20; Standard-errors: Clustered (pair_id); Estimate Std. Error z value Pr(>|z|)
|
term
|
estimate
|
std.error
|
statistic
|
p.value
|
conf.low
|
conf.high
|
|---|---|---|---|---|---|---|
|
lgdp_d
|
1.34073435
|
0.2736481
|
4.89948283
|
0.0000009608925
|
0.804393857
|
1.87707485
|
|
lpop_d
|
-3.70762174
|
3.7865905
|
-0.97914516
|
0.3275082618036
|
-11.129202716
|
3.71395924
|
|
fta_dummy
|
-0.27743185
|
0.1995113
|
-1.39055724
|
0.1643597312944
|
-0.668466759
|
0.11360307
|
|
lrer_bilat
|
0.18470001
|
0.1781727
|
1.03663484
|
0.2999060711085
|
-0.164512028
|
0.53391204
|
|
lict_d
|
-0.59062235
|
0.2738663
|
-2.15660823
|
0.0310362024545
|
-1.127390473
|
-0.05385424
|
|
fdi_dummy
|
-0.11029448
|
0.1703056
|
-0.64762684
|
0.5172263359805
|
-0.444087351
|
0.22349838
|
|
lgdp_latin
|
0.05503461
|
0.6260604
|
0.08790623
|
0.9299512050962
|
-1.172021228
|
1.28209045
|
|
lpop_latin
|
-4.64464595
|
4.4619315
|
-1.04094964
|
0.2978989224755
|
-13.389870926
|
4.10057903
|
|
fta_latin
|
0.36245685
|
0.1833878
|
1.97644967
|
0.0481038707235
|
0.003023274
|
0.72189043
|
|
lrer_latin
|
-1.29067121
|
0.3807196
|
-3.39008382
|
0.0006987125706
|
-2.036867825
|
-0.54447459
|
|
lict_latin
|
1.28357821
|
0.3891663
|
3.29827715
|
0.0009728006418
|
0.520826341
|
2.04633008
|
Log-Likelihood: -73,090,955.4 Adj. Pseudo R2: 0.986805
BIC: 146,182,369.6 Squared Cor.: 0.986437
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
KẾT LUẬN
Kết quả đạt được, nghiên cứu đưa ra một số hàm ý chính sách như sau:
Một là, tận dụng tối đa các FTA với Mỹ Latinh. Kết quả cho thấy tác động của FTA là rõ rệt và có ý nghĩa đối với nhóm Mỹ Latinh. Điều này khẳng định rằng các hiệp định như FTA Việt Nam - Chile và CPTPP thực sự mang lại cơ hội mở rộng thương mại. Do đó, Việt Nam cần đẩy mạnh việc phổ biến thông tin, nâng cao năng lực tận dụng ưu đãi FTA cho doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy đàm phán các thỏa thuận thương mại song phương và đa phương khác với các nước Mỹ Latinh.
Hai là, phát triển hạ tầng công nghệ và logistics số để hỗ trợ thương mại với các thị trường xa. ICT thể hiện tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê cao đối với thương mại Việt Nam - Mỹ Latinh. Chính sách cần tập trung vào hỗ trợ số hóa hoạt động xuất khẩu, xây dựng nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới, và tăng cường hợp tác logistics số với Mỹ Latinh.
Ba là, kiểm soát rủi ro tỷ giá trong quan hệ thương mại với Mỹ Latinh. Biến động tỷ giá được chứng minh có tác động tiêu cực đối với thương mại với khu vực này, cho thấy xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ Latinh dễ bị tổn thương trước biến động tiền tệ. Điều này đặt ra yêu cầu xây dựng cơ chế bảo hiểm tỷ giá, đa dạng hóa đồng tiền thanh toán, và tăng cường hợp tác ngân hàng giữa Việt Nam và Mỹ Latinh nhằm giảm thiểu rủi ro.
Bốn là, thúc đẩy dòng vốn FDI 2 chiều để bổ sung động lực thương mại. Mặc dù FDI chưa thể hiện tác động rõ ràng trong mô hình, song đây có thể là do quy mô FDI từ Mỹ Latinh vào Việt Nam còn nhỏ. Trong tương lai, việc khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ Latinh đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực nông sản, thủy sản, logistics và chế biến công nghiệp, có thể tạo nền tảng cho thương mại song phương phát triển bền vững hơn.
(*) Bài viết phục vụ cho đề tài cơ sở “Các yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh”, mã số CM/NV/2025-09.
Tài liệu tham khảo:
1. Bergstrand, J. (1985). The gravity equation in international trade: Some microeconomic foundations and empirical evidence, Review of Economics and Statistics, 67(3), 474-481.
2. Head, K., & Mayer, T. (2014). Gravity equations: Workhorse, toolkit, and cookbook. In Gopinath, Helpman & Rogoff (Eds.), Handbook of International Economics, Vol. 4, pp. 131-195.
3. MOIT (2021). Vietnam-Latin America Trade Forum 2021, Ministry of Industry and Trade of Vietnam.
4. MOIT (2022). Vietnam-Latin America Trade Forum 2022, Ministry of Industry and Trade of Vietnam.
5. MPI (2025). Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam năm 2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
6. Tinbergen, J. (1962). Shaping the world economy: Suggestions for an international economic policy, Twentieth Century Fund.
|
Ngày nhận bài: 3/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 20/9/2025; Ngày duyệt xuất bản: 24/9/2025 |

Bình luận