TS. Nguyễn Thị Thu Trang

Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam thông qua mô hình hồi quy tuyến tính bội với 314 quan sát. Kết quả cho thấy, 6 yếu tố có tác động đến sự phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam gồm: Nhận thức và nhu cầu khách hàng; Ứng dụng công nghệ Blockchain về minh bạch và trách nhiệm giải trình; Áp lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế; Chính sách và pháp lý; Nguồn lực tài chính và nhân lực; Công nghệ và cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy ngân hàng xanh ở Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Ngân hàng xanh, phát triển ngân hàng xanh, ngân hàng thương mại

Summary

This study investigates the determinants of green banking development in Viet Nam by employing a multiple linear regression model with 314 observations. The findings indicate that six factors significantly influence green banking development, including Customer awareness and demand; the Application of blockchain technology for enhancing transparency and accountability; Competitive pressure and international integration; Policy and legal frameworks; Financial and human resources; Technology and infrastructure. Drawing on these results, the study proposes policy implications to advance green banking in Viet Nam in the future.

Keywords: Green banking, green banking development, commercial banks

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề được đặc biệt quan tâm trên toàn cầu, việc phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường là một yêu cầu cấp thiết. Phát triển ngân hàng xanh, với mục tiêu thúc đẩy các hoạt động tài chính thân thiện với môi trường, đã được đặt ra như một giải pháp quan trọng giúp điều chỉnh các nguồn vốn vào những dự án bền vững.

Thực tế cho thấy, ngân hàng xanh không chỉ là một xu hướng phát triển tự nhiên, mà còn là yêu cầu cấp bách trong việc hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững. Vai trò của ngân hàng không chỉ giới hạn ở việc cung cấp nguồn tài chính, mà còn định hướng nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội ưu tiên, trong đó có bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Tại các quốc gia phát triển, ngân hàng xanh đã trở thành một phần tất yếu trong hoạt động tài chính. Các ngân hàng không chỉ cam kết đầu tư vào các dự án thân thiện môi trường mà còn từ chối tài trợ cho các hoạt động gây hại đến hệ sinh thái.

Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng để lại nhiều hệ lụy nghiêm trọng đối với môi trường, như gia tăng khí thải nhà kính, ô nhiễm không khí, nguồn nước và suy giảm tài nguyên thiên nhiên. Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và tích cực tham gia các nỗ lực quốc tế nhằm giảm phát thải khí nhà kính.

Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần huy động một lượng vốn khổng lồ để thực hiện các dự án năng lượng sạch, phát triển cơ sở hạ tầng bền vững và chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Các ngân hàng thương mại, với vai trò là trung gian tài chính quan trọng, có thể trở thành cầu nối hiệu quả giữa nguồn vốn và các dự án thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, sự phát triển của ngân hàng xanh tại Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, từ rào cản chính sách, nhận thức đến nguồn lực triển khai. Điều đó làm nổi bật tính cấp thiết của việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực này; xác định cụ thể những vướng mắc, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp, hỗ trợ sự phát triển bền vững của ngân hàng xanh tại Việt Nam để không chỉ bắt kịp xu hướng toàn cầu mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Lý thuyết về phát triển ngân hàng xanh

Phát triển ngân hàng xanh là việc áp dụng các nguyên tắc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vào mọi hoạt động tài chính và vận hành của ngân hàng, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời tạo động lực cho các dự án xanh và bền vững (Lalon, 2015). Cụ thể, ngân hàng xanh hướng tới các mục tiêu: (i) Tích hợp yếu tố môi trường vào chính sách tín dụng: Ngân hàng xanh xây dựng các sản phẩm tài chính thân thiện với môi trường như tín dụng xanh, đầu tư vào năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ và các dự án giảm phát thải carbon; (ii) Quản lý rủi ro môi trường: Các ngân hàng áp dụng quy trình thẩm định môi trường và xã hội đối với các khoản vay, giảm thiểu tài trợ cho các dự án gây tổn hại đến môi trường; (iii) Số hóa và tiết kiệm tài nguyên: Thúc đẩy ngân hàng trực tuyến, giảm sử dụng tài nguyên như giấy và điện năng, đồng thời cải thiện hiệu suất năng lượng thông qua công nghệ hiện đại; (iv) Hỗ trợ tài chính bền vững: Tạo điều kiện tài chính ưu đãi cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án liên quan đến phát triển bền vững, năng lượng sạch và quản lý tài nguyên hiệu quả.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên nghiên cứu của Lalon (2015); Nguyễn Thị Lệ Huyền (2019); Trần Thị Thanh Tú và cộng sự (2019); Zhou và cộng sự (2022); Hoàng Thị Minh Châu, Trần Thị Kim Liên (2023)…, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như Hình.

Hình: Mô hình nghiên cứu

Nguồn: Tác giả đề xuất

Phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu phục vụ nghiên cứu bao gồm 314 quan sát, là những người có sử dụng dịch vụ ngân hàng xanh hoặc làm việc tại các ngân hàng thương mại ở TP. Hồ Chí Minh. Khảo sát được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 7/2025 (Nghiên cứu sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thống kê mẫu

Dữ liệu phục vụ nghiên cứu bao gồm 314 quan sát, với 104 nam (33.1%) và 210 nữ (66.9%). Kết quả thống kê mô tả mẫu được trình bày trong Bảng 1.

Bảng 1: Thống kê mô tả theo giới tính

Tiêu thức phân loại

Tần số

Phần trăm

Phần trăm giá trị

Phần trăm tích lũy

Nữ

210

66.9

66.9

66.9

Nam

104

33.1

33.1

100.0

Tổng cộng

314

100.0

100.0

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả

Trong tổng số mẫu là 314 người, đa số đối tượng không làm việc tại ngân hàng (203 người, chiếm 64.4%); có làm việc tại ngân hàng là 111 người (35.4%). Điều này cho thấy, người không làm trong ngân hàng khá quan tâm đến ngân hàng xanh, họ cũng nhận thức và ủng hộ việc chuyển đổi sang ngân hàng xanh.

Trong tổng số 111 người làm việc tại ngân hàng, nhóm có kinh nghiệm làm việc trên 6 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (46 người, chiếm 14.6%). Tiếp theo là nhóm có kinh nghiệm từ 3 đến 6 năm (26 người, chiếm 8.3%) và nhóm có kinh nghiệm làm việc từ 1 đến 3 năm (24 người, chiếm 7.6%). Nhóm có kinh nghiệm dưới 1 năm chiếm tỷ lệ thấp nhất (15 người, chiếm 4.8%). Kết quả này phản ánh đối tượng khảo sát chủ yếu là những người đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc, đảm bảo mức độ am hiểu và độ tin cậy trong việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu.

Kiểm định đa cộng tuyến trong mô hình

Bảng 2: Kiểm định ANOVA

Tổng bình phương

df

Hồi quy

F

Sig.

Hồi quy

Sai số

Tổng cộng

45.476

22.970

68.446

6

307

313

7.579

0.075

101.302

.000

Nguồn: Tính toán từ phần mềm SPSS

Bảng 2 cho thấy, kiểm định F có giá trị Sig. = 0.000 nhỏ hơn mức ý nghĩa là 5%. Bên cạnh đó, các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Sig. = 0.000), chứng tỏ các biến độc lập đều có tác động đáng kể đến biến phụ thuộc. Giá trị Tolerance của các biến dao động từ 0.601 đến 0.783, đều > 0.1; hệ số VIF nằm trong khoảng [1.277-1.664], thấp hơn ngưỡng 10. Điều này khẳng định, mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến, tức là các biến độc lập không có mối quan hệ tuyến tính quá mạnh với nhau.

Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan cho thấy, hệ số Durbin-Watson = 2.136, nằm trong khoảng [1-3]. Điều này khẳng định, mô hình không có hiện tượng tự tương quan giữa các phần dư.

Phân tích hồi quy

Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy

Mô hình

Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa

(B)

Sai số chuẩn

Hệ số hồi quy chuẩn hóa (Beta)

t

Sig.

Tolerance

VIF

(Constant)

-0.916

0.231

-3.973

0.000

CP_TB

0.178

0.037

0.180

4.810

0.000

0.783

1.277

NL_TB

0.181

0.044

0.158

4.115

0.000

0.744

1.344

CN_TB

0.157

0.045

0.141

3.529

0.000

0.688

1.454

KH_TB

0.219

0.035

0.266

6.226

0.000

0.601

1.664

CT_TB

0.200

0.040

0.190

4.937

0.000

0.741

1.350

BC_TB

0.251

0.045

0.231

5.529

0.000

0.626

1.596

Nguồn: Tính toán từ phần mềm SPSS

Kết quả phân tích hồi quy (Bảng 3) cho thấy, tất cả các biến độc lập đều có giá trị Sig. = 0.000, nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%. Điều này khẳng định các biến đều có ảnh hưởng thống kê đáng kể đến biến phụ thuộc.

Từ các hệ số hồi quy chuẩn hóa, có thể sắp xếp mức độ ảnh hưởng của các yếu tố từ mạnh đến yếu như sau: Nhận thức và nhu cầu khách hàng (KH, β = 0.266); Ứng dụng công nghệ Blockchain (BC, β = 0.231); Áp lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế (CT, β = 0.190); Chính sách và pháp lý (CP; β = 0.180); Nguồn lực tài chính và nhân lực (NL, β = 0.158); Công nghệ và cơ sở hạ tầng (CN, β = 0.141). Như vậy, Nhận thức và nhu cầu khách hàng là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất tới sự phát triển ngân hàng xanh. Mô hình hồi quy sau chuẩn hóa được viết lại như sau

NGH = 0.180*CP + 0.158*NL + 0.141*CN + 0.266*KH + 0.190*CT + 0.231*BC + ε

THẢO LUẬN KẾT QUẢ VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Thảo luận kết quả

Nhận thức và nhu cầu khách hàng (KH, β = 0.266)

Đây là yếu tố có tác động lớn nhất đến phát triển ngân hàng xanh. Kết quả này phù hợp với thực trạng ở Việt Nam đã cho thấy, đa phần khách hàng cá nhân tại Việt Nam vẫn chưa quan tâm nhiều đến sản phẩm tài chính xanh; trong khi khách hàng doanh nghiệp - đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và nông nghiệp hữu cơ - lại có nhu cầu khá rõ rệt. Chính sự khác biệt này giải thích tại sao nhận thức khách hàng đóng vai trò quyết định. Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Hương và Trần Quốc Việt (2021), đồng thời tương đồng với Arumugam và Chirute (2018) tại Malaysia, cho rằng nhu cầu xã hội và áp lực từ khách hàng là động lực chính thúc đẩy ngân hàng triển khai sản phẩm xanh.

Ứng dụng công nghệ Blockchain về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình (BC, β = 0.231)

Yếu tố này có ảnh hưởng lớn thứ hai, phản ánh vai trò quan trọng của cam kết từ lãnh đạo ngân hàng. Thực tế cho thấy, một số ngân hàng lớn như BIDV, Vietcombank đã công bố báo cáo phát triển bền vững và đưa ra chính sách tín dụng xanh, nhưng việc triển khai còn thiên về hình thức, chưa đồng bộ toàn hệ thống. Điều này lý giải vì sao biến BC có hệ số khá cao - khi ngân hàng thực sự tích hợp bộ tiêu chuẩn phát triển bền vững, bao gồm các tiêu chí Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) vào quản trị nội bộ thì mức độ phát triển ngân hàng xanh sẽ mạnh mẽ hơn. Kết quả củng cố phát hiện của Trần Thị Thanh Tú và cộng sự (2019) khi cho rằng, nhận thức lãnh đạo và năng lực quản trị là nhân tố then chốt.

Áp lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế (CT, β = 0.190)

Kết quả này phù hợp với thực tế hiện nay, khi một số ngân hàng thương mại Việt Nam đã tiếp cận nguồn vốn quốc tế qua phát hành trái phiếu xanh, nhưng quy mô còn nhỏ, trong khi áp lực từ các tổ chức tài chính quốc tế lại gia tăng. Điều này tạo ra “hai mặt” - vừa là cơ hội tiếp cận vốn, vừa là thách thức cạnh tranh. Kết quả này trùng khớp với nghiên cứu của Claessens và van Horen (2014) và bổ sung bằng chứng thực nghiệm trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng.

Chính sách và pháp lý (CP, β = 0.180)

Biến này có tác động tích cực, phản ánh đúng thực tế. Hiện Việt Nam đã ban hành Đề án phát triển ngân hàng xanh, lồng ghép tiêu chí môi trường trong cấp tín dụng. Tuy nhiên, các quy định cụ thể và cơ chế ưu đãi vẫn còn thiếu, làm hạn chế tác động. Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Lệ Huyền (2019) và Bùi Thị Yên (2024), họ đều khẳng định, khung chính sách là yếu tố quyết định sự phát triển ngân hàng xanh.

Nguồn lực tài chính và nhân lực (NL, β = 0.158)

Kết quả nghiên cứu cho thấy, biến NL tác động còn yếu tới phát triển ngân hàng xanh. Điều này được lý giải là bởi nhiều ngân hàng chưa mạnh dạn cấp vốn lớn và dài hạn cho dự án xanh do rủi ro cao, trong khi nhân lực am hiểu ESG còn thiếu. Thực trạng cũng ghi nhận hạn chế về năng lực tài chính và nhân sự chuyên môn, khiến việc triển khai ngân hàng xanh chưa bền vững. Kết quả phù hợp với Nguyễn Văn Hùng & Lê Thị Thu Hà (2020).

Công nghệ và cơ sở hạ tầng (CN, β = 0.141)

Đây là yếu tố có tác động thấp nhất. Hiện nay, mặc dù các ngân hàng đã triển khai mobile banking, internet banking, tiết kiệm giấy tờ, nhưng ứng dụng công nghệ xanh còn hạn chế, chưa hình thành hệ sinh thái tài chính xanh toàn diện. Điều này lý giải vì sao công nghệ chưa trở thành động lực chính, khác với kết quả nghiên cứu của Zhou và cộng sự (2022) tại Trung Quốc, nơi công nghệ tài chính đóng vai trò mạnh hơn trong tăng trưởng xanh.

Hàm ý chính sách

Một là, nhận thức và nhu cầu khách hàng

Đây là yếu tố có tác động mạnh nhất đến sự phát triển ngân hàng xanh, vì vậy các ngân hàng thương mại cần tập trung nâng cao nhận thức và tạo nhu cầu thực chất từ phía khách hàng. Ngoài việc đẩy mạnh truyền thông và giáo dục tài chính xanh để khách hàng cá nhân hiểu rõ lợi ích của việc sử dụng dịch vụ xanh, ngân hàng cần thiết kế đa dạng sản phẩm như tín dụng xanh, thẻ xanh, tiết kiệm xanh kèm theo ưu đãi lãi suất và phí dịch vụ. Đồng thời, có thể kết hợp với doanh nghiệp trong các lĩnh vực: năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ hoặc tiêu dùng bền vững, để hình thành hệ sinh thái sản phẩm xanh, giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận và tin tưởng hơn vào các dịch vụ này.

Hai là, ứng dụng công nghệ Blockchain về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình

Các ngân hàng cần xem phát triển xanh là một phần trong chiến lược kinh doanh cốt lõi, thay vì chỉ dừng lại ở cam kết hình thức. Việc ứng dụng Blockchain không chỉ giúp nâng cao tính minh bạch, mà còn hỗ trợ thiết lập cơ chế trách nhiệm giải trình hiệu quả. Để làm được điều này, ngân hàng cần thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường - xã hội, xây dựng quy trình thẩm định tín dụng xanh và tích hợp các tiêu chí ESG vào quản trị nội bộ. Đồng thời, việc công bố báo cáo phát triển bền vững định kỳ theo chuẩn mực quốc tế là cần thiết nhằm minh bạch hóa thông tin, gia tăng uy tín và củng cố niềm tin của nhà đầu tư cũng như khách hàng.

Ba là, áp lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế

Hội nhập tài chính mang lại nhiều cơ hội tiếp cận vốn xanh, song cũng tạo sức ép cạnh tranh từ các định chế quốc tế. Do đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần chủ động hợp tác với các tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, thu hút vốn và đồng tài trợ cho các dự án xanh. Song song với đó, việc xây dựng sản phẩm xanh đặc thù, mang dấu ấn riêng của từng ngân hàng cũng là cách để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước. Ngoài ra, tham gia các sáng kiến toàn cầu như “Nguyên tắc ngân hàng có trách nhiệm của Liên hợp quốc” hoặc “Nguyên tắc Xích đạo” sẽ giúp các ngân hàng nâng cao uy tín và khả năng tiếp cận nguồn vốn quốc tế.

Bốn là, chính sách và pháp lý

Mặc dù yếu tố này chịu sự chi phối lớn từ Nhà nước, nhưng các ngân hàng thương mại vẫn cần chủ động “đi trước đón đầu”. Việc xây dựng hệ thống phân loại tín dụng xanh nội bộ, gắn nhãn xanh cho các khoản vay cũng như chuẩn bị khung phát hành trái phiếu xanh theo chuẩn mực quốc tế sẽ giúp ngân hàng sẵn sàng thích ứng khi Nhà nước hoàn thiện hành lang pháp lý. Bằng cách này, ngân hàng vừa tạo được lợi thế cạnh tranh, vừa có thể chủ động huy động vốn từ thị trường quốc tế.

Năm là, nguồn lực tài chính và nhân lực

Các ngân hàng cần cải thiện cả về năng lực tài chính và nhân sự để đáp ứng yêu cầu phát triển xanh. Một mặt, ngân hàng có thể đa dạng hóa nguồn vốn thông qua phát hành trái phiếu xanh, hợp tác với quỹ khí hậu hoặc tổ chức tài chính quốc tế. Mặt khác, việc đào tạo cán bộ tín dụng về kỹ năng thẩm định dự án xanh, đánh giá rủi ro môi trường - xã hội và quản trị ESG là điều bắt buộc. Chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân nhân sự có chuyên môn cao cũng là yếu tố quan trọng, giúp ngân hàng duy trì năng lực triển khai bền vững.

Sáu là, về công nghệ và cơ sở hạ tầng

Mặc dù có hệ số tác động nhỏ nhất trong mô hình, nhưng công nghệ lại là nền tảng quan trọng về lâu dài để phát triển ngân hàng xanh. Theo đó, các ngân hàng cần đẩy mạnh chuyển đổi số, triển khai quy trình tín dụng không giấy tờ, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để nâng cao hiệu quả thẩm định và quản lý danh mục tín dụng xanh. Ngoài ra, việc phát triển hệ thống giám sát và báo cáo tự động, cũng như kết nối API với đối tác trong hệ sinh thái xanh (như: doanh nghiệp năng lượng tái tạo, nhà sản xuất thiết bị tiết kiệm năng lượng) sẽ giúp ngân hàng gia tăng giá trị cho khách hàng và nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro.

Tài liệu tham khảo:

1. Arumugam, V. C., & Chirute, S. (2018). Customer awareness and green banking practices: Evidence from Malaysia. International Journal of Business and Society, 19(3), 678-695.

2. Bùi Thị Yên (2024). Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính, Kỳ 1 tháng 9/2024.

3. Claessens, S., & van Horen, N. (2014). Foreign banks: Trends, impact and financial stability. Journal of Money, Credit and Banking, 46(1), 295-326. https://doi.org/10.1111/jmcb.12092

4. Hoàng Thị Minh Châu, Trần Thị Kim Liên (2023). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ ngân hàng xanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học thương mại, số đặc biệt 1.

5. Lalon, R. M. (2015). Green Banking: Going Green. International Journal of Economics and Finance, 7(1), 74-91.

6. Nguyễn Thị Lệ Huyền (2019). Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng ngân hàng xanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 208, tháng 9/2019.

7. Nguyễn Văn Hùng, Lê Thị Thu Hà (2020). Nguồn lực tài chính và nhân lực trong phát triển ngân hàng xanh. Nxb Tài chính.

8. Phạm Thị Thanh Hương, Trần Quốc Việt (2021). Nhận thức và nhu cầu của khách hàng đối với ngân hàng xanh. Nxb Kinh tế Quốc dân.

9. Trần Thị Thanh Tú, Ngô Anh Phương & Nguyễn Thị Nhung (2019). Nghiên cứu thực nghiệm: Cấp độ phát triển và các nhân tố ảnh hưởng đến ngân hàng xanh tại Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, chuyên đề đặc biệt 2019.

10. Zhou, G., Zhu, J., & Luo, S. (2022). The impact of fintech innovation on green growth in China: Mediating effect of green finance. Ecological Economics, 193, 107308.

Ngày nhận bài: 1/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 24/9/2025; Ngày duyệt đăng: 25/9/2025