Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phúc lợi con người tại các nước có thu nhập trung bình thấp
Trần Thị Diễm Nga
Trường Đại học Tài nguyên Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh
Email: ttdnga@hcmunre.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phúc lợi con người (CIWB). Từ lý thuyết trao đổi bất bình đẳng sinh thái, nghiên cứu sử dụng mô hình hiệu ứng cố định 2 chiều để phân tích CIWB và các biến kinh tế tại nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp trong giai đoạn 2000-2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố kinh tế như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có khả năng tác động tới CIWB theo thời gian. Tuy nhiên, do tác động này ở mức thấp, nên các quốc gia cần chú trọng tới các chiến lược phát triển bền vững.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, phúc lợi con người, các nước có thu nhập trung bình thấp
Summary
This study analyzes the relationship between economic growth and the carbon intensity of human well-being (CIWB). Drawing on the ecological unequal exchange theory, the research employs a two-way fixed effects model to examine CIWB and economic variables in lower-middle-income countries during the period 2000-2020. The research findings indicate that economic factors such as foreign direct investment (FDI) can influence CIWB over time. However, since this impact is relatively modest, countries should prioritize sustainable development strategies.
Keywords: Foreign direct investment, human well-being, lower-middle-income countries
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh phát triển bền vững, nhiều biện pháp phúc lợi đã được phát triển để phản ánh một khái niệm rộng hơn khi xem xét đến môi trường (Dietz và cộng sự, 2009). Mật độ CO2 đối với với phúc lợi con người (CIWB) được định nghĩa là lượng khí thải carbon trên mỗi đơn vị tuổi thọ, được tạo ra trong nỗ lực xem xét sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường. CIWB được sử dụng để so sánh giữa các mức độ phát triển khác nhau ở các quốc gia. CIWB tăng sẽ cho biết quốc gia đó ít đạt được sự phát triển bền vững. Ngược lại, CIWB giảm sẽ cho thấy quốc gia đó đã đạt được sự cân bằng về tuổi thọ cao hơn và lượng khí thải thấp hơn (Jorgenson, 2014). Mục tiêu của các quốc gia là đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững, nghĩa là tăng trưởng không chỉ về mặt kinh tế, mà còn đảm bảo môi trường sống lành mạnh cho các thế hệ tương lai. Điều đó có nghĩa CIWB thấp cho thấy quốc gia đó có thể đạt được mức phúc lợi cao khi so với lượng phát thải CO2 vào môi trường.
Trường hợp của các quốc gia có thu nhập trung bình thấp (MIC thấp), nghiên cứu chỉ ra rằng các nước này đang phải đối mặt với tình thế “tiến thoái lưỡng nan” là tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và thải ra lượng khí CO2 cao. Do đó, nếu không có các chiến lược phát triển bền vững, các nước này có thể làm gia tăng giá trị CIWB, điều này có thể gây tổn hại đến sự thành công của quá trình phát triển. Chính vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của FDI đến CIWB tại các nước có thu nhập trung bình thấp là cấp thiết.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Thuật ngữ các quốc gia có thu nhập trung bình (MIC) được định nghĩa bằng cách nhóm các quốc gia theo thu nhập của họ. MIC thấp là một nhóm các quốc gia vừa vượt qua ngưỡng thu nhập thấp và có tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người trong khoảng từ 1.136 đến 4.465 USD, đã thu hút FDI để thúc đẩy nền kinh tế của họ và nâng cao phúc lợi (Sharma và Gani, 2004).
Lý thuyết về trao đổi bất bình đẳng sinh thái cho thấy, sự tồn tại của các mối quan hệ cấu trúc tạo điều kiện cho các dòng vật chất không bình đẳng, trong đó các nước phát triển có quyền lực lớn hơn trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thải ra ô nhiễm ở các nước kém phát triển hơn (Bunker, 2019; Ciccantell, 2019; Givens và cộng sự, 2019; Jorgenson, 2006).
Nghiên cứu thu thập dữ liệu từ 2000-2020 của nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Mối quan hệ giữa phúc lợi con người CIWB và các biến kinh tế như GDP, FDI và Hợp đồng hiệu suất năng lượng (EPC) sẽ là câu trả lời cho hiệu quả của phát triển kinh tế, vì phúc lợi con người trong khi xem xét đến biến đổi khí hậu toàn cầu.
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu được thể hiện như sau:

Trong đó:
- CIWBit: Thước đo phúc lợi con người khi xem xét đến tác động môi trường.
- θ1: Là tham số ước tính của FDI, phản ánh tác động của FDI đến CIWB trong năm tham chiếu - năm 2000.
- (θ2;....; θ21): Là tham số ước tính của FDI, phản ánh tác động của FDI đến CIWB theo thời gian từ năm 2001 đến năm 2020 và tham chiếu đến giá trị của năm tham chiếu - năm 2000.
- (θ21 year 2001 +...+ θ41 year 2020): Các điểm chặn theo năm cụ thể.
- θ41: Là tham số ước tính của GDP phản ánh tác động chung của GDP đến CIWB.
- θ39: Là tham số ước tính của EPC phản ánh tác động tổng thể của EPC đến CIWB.
- ui: Các điểm chặn theo quốc gia cụ thể.
- eit: Sai số chuẩn cho mỗi quốc gia trong mỗi thời điểm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thu thập dữ liệu liên quốc gia từ 2000-2020 cho nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp bao gồm: Algeria, Bangladesh, Ai Cập, Ấn Độ, Morocco, Pakistan, Philippines, Uzbekistan và Việt Nam. Trong quá trình phát triển, các quốc gia này đã tăng trưởng kinh tế và gia tăng nhanh chóng lượng khí thải CO2 dựa trên sản xuất và tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch (Hachaichi và Baouni, 2021). Nghiên cứu thu thập bao gồm 189 quan sát theo dữ liệu bảng để kiểm tra mối quan hệ giữa phúc lợi con người và các biến kinh tế như: FDI, GDP, EPC.
Dữ liệu nghiên cứu thu thập từ nhiều nguồn gồm: Ngân hàng Thế giới (WB), Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) và Our world in data để đảm bảo dữ liệu đầy đủ trong giai đoạn nghiên cứu. Trong đó, phúc lợi con người thể hiện bằng CIWB được tính toán bằng cách chia lượng khí thải CO2 bình quân đầu người và tuổi thọ trung bình (LE). Để phân tích tác động của phát triển kinh tế tới CIWB theo thời gian, nghiên cứu sử dụng mô hình hiệu ứng cố định 2 chiều.
Cấu trúc mô hình phù hợp với kiểm định giả thuyết, vì nó loại trừ mọi biến động (biến thiên) theo thời kỳ và theo quốc gia. Các biến độc lập về phát triển kinh tế (FDI, GDP, EPC) và các biến tương tác FDI theo thời gian đã được phân tích, để đánh giá tác động của các biến này tới CIWB, những thay đổi về tác động của FDI lên CIWB được tính đến giá trị tác động của 5 tham chiếu (năm 2000) trong giai đoạn từ 2000-2020.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Thống kê mô tả của các biến độc lập trong mô hình
| Biến | FDI bình quân đầu người (triệu USD theo giá hiện hành) | EPC bình quân đầu người (nghìn Kwh) | GDP bình quân đầu người (giá USD cố định năm 2015) |
| Giá trị trung bình | 39.9923 | 744.883 | 2.278.739 |
| Độ lệch chuẩn | 37.3133 | 5381.475 | 1.089.631 |
| Giá trị nhỏ nhất | -14.7132 | 1065.242 | 620.5602 |
| Giá trị cao nhất | 166 | 24024.72 | 4.768.731 |
| Chỉ số Skewness | 1,2289 | 1,2112 | 0,5091 |
| Chỉ số Kurtosis | 4,1211 | 3,7641 | 2,3598 |
Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp
Bảng 1 cho thấy, nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp có GDP bình quân đầu người là 2.278.739 USD, thu hút vốn FDI hàng năm trung bình được khoảng 399.923 triệu USD. Các quốc gia này tiêu thụ trung bình 744.883 nghìn Kwh điện năng bình quân đầu người và đạt giá trị CIWB là 36.571. Theo nghiên cứu của Dietz và cộng sự (2012) và Jorgenson (2014), để ước lượng được giá trị CIWB, trước tiên phải tìm ra giá trị hằng số CF được thể hiện theo phương trình sau:
CIWB = ((CO2 + CF)/LE) * 100 (*)
Trong đó:
- CF = ([SCO2 * MLE]/SLE) - MCO2
- Với S là độ lệch chuẩn; M là giá trị trung bình.
- CO2: Lượng khí thải CO2 bình quân đầu người; LE: tuổi thọ trung bình.
Dữ liệu mẫu của bài là 23.5142 và được cộng vào giá trị của CO2 và tính toán theo phương trình (*). Các giá trị CIWB của các quốc gia sau khi điều chỉnh như trong Hình 1.
Hình 1: Giá trị CIWB của nhóm các quốc gia có thu nhập thấp giai đoạn 2000-2020
![]() |
Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp
Hình 1 cho thấy, xu hướng giảm chung của CIWB đối với nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp trong giai đoạn nghiên cứu với giá trị từ khoảng 32 đến 44. Trong đó, Việt Nam là một ngoại lệ với xu hướng tăng chậm trong giai đoạn đầu và tăng nhanh từ 2018-2020 và giá trị của nó ở mức thấp (khoảng 32 đến gần 38). Uzbekistan đã gây chú ý với sự sụt giảm thành công của CIWB từ mức giá trị cao nhất trong nhóm. Tuy nhiên, trong các năm 2019-2020, CIWB ở nhóm các quốc gia này lại có xu hướng tăng nhẹ.
Hình 2: Giá trị FDI bình quân đầu người của nhóm các quốc gia có thu nhập thấp giai đoạn 2000-2020
![]() |
Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp
Hình 2 thể hiện xu hướng hỗn hợp trong sự thay đổi giá trị FDI bình quân đầu người của nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp trong giai đoạn 2000-2020. Các quốc gia Bangladesh, Ấn Độ và Pakistan đã có xu hướng tăng nhẹ trong giai đoạn này. Đối với Việt Nam, giá trị FDI có xu hướng ổn định vào đầu giai đoạn nghiên cứu, đến năm 2007, giá trị FDI đã tăng vọt và sau đó tiếp tục tăng cho đến năm 2020.
Bảng 2: Tác động của FDI đến CIWB theo thời gian giai đoạn 2000-2020
| Biến độc lập | Hệ số | P_value |
| FDI | 0,0106*** | 0,000 |
| FDI_2001 | -0,3268 | 0,323 |
| FDI_2002 | -0,4403 | 0,185 |
| FDI_2003 | -0,6114* | 0,068 |
| FDI_2004 | -0,8154* | 0,017 |
| FDI_2005 | -0,9794** | 0,005 |
| FDI_2006 | -1,3157*** | 0,000 |
| FDI_2007 | -1,6367*** | 0,000 |
| FDI_2008 | -1,7906*** | 0,000 |
| FDI_2009 | -1,9122*** | 0,000 |
| FDI_2010 | -2,0550*** | 0,000 |
| FDI_2011 | -2,1199*** | 0,000 |
| FDI_2012 | -2,2681*** | 0,000 |
| FDI_2013 | -2,4794*** | 0,000 |
| FDI_2014 | -2,6460*** | 0,000 |
| FDI_2015 | -2,7528*** | 0,000 |
| FDI_2016 | -2,9196*** | 0,000 |
| FDI_2017 | -3,0340*** | 0,000 |
| FDI_2018 | -3,2031*** | 0,000 |
| FDI_2019 | -3,1681*** | 0,000 |
| FDI_2020 | -1,6558*** | 0,001 |
| GDP | 0,0002 | 0,949 |
| ECP | 0,0002*** | 0,000 |
| Hằng số | 36,2552*** | 0,000 |
| Rho | 0,8086 |
Ghi chú: *: Có ý nghĩa ở mức 10%; **: Có ý nghĩa ở mức 5%; ***: Có ý nghĩa ở mức 1%
Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp
Kết quả Bảng 2 cho thấy, tác động của FDI trong năm tham chiếu 2000 là dương (0,0106) có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này cho thấy, trong năm này, FDI đã làm tăng CIWB, nghĩa là nó làm tăng lượng CO2. Tương tác giữa FDI và các biến giả năm (2001 và 2002) là âm và không có ý nghĩa thống kê, nghĩa là giữ nguyên giá trị tác động trong năm tham chiếu 2000. Sau đó, tương tác FDI so với các biến giả từ năm 2003 đến 2020 là âm và tất cả đều có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, mối quan hệ giữa CIWB và FDI tại các quốc gia nghiên cứu là dương ở năm 2000 và có xu hướng giảm ngày càng nhiều trong giai đoạn 2003-2018, giảm ít lại từ năm 2019 đến năm 2020. Điều này thể hiện FDI có tác động làm tăng phúc lợi con người tại nhóm các quốc gia có thu nhập thấp khi tính đến phát thải CO2. Điều này cho thấy, việc thu hút FDI của nhóm quốc gia này giúp giảm phát thải CO2, tăng cường bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, mức độ tác động vẫn còn thấp và có xu hướng sụt giảm từ sau năm 2018.
Bên cạnh đó, hệ số GDP dương nhưng không có ý nghĩa thống kê cho thấy GDP không có tác động lên CIWB theo thời gian. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy, tác động tích cực của EPC làm tăng CIWB (Jorgenson và Clark, 2012; Dietz, Rosa và York (2012), tức là sự tăng trưởng hiện tại dựa trên tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch sẽ khiến các quốc gia kém bền vững hơn. Nói cách khác, điều này cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng đang tạo ra nhiều áp lực hơn lên môi trường do lượng khí thải CO2 khổng lồ vào môi trường.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nghiên cứu cho thấy, các quốc gia thu nhập trung bình thấp vẫn có thể đạt được những lợi ích về phúc lợi con người khi hợp tác với các nước phát triển hơn. Tác động tiêu cực của FDI lên CIWB theo thời gian cho thấy, lượng vốn FDI đổ vào càng nhiều thì giá trị của CIWB càng giảm, giúp gia tăng phúc lợi con người. Tuy nhiên, EPC lại có tác động ngược lại, gây áp lực lên môi trường thông qua tác động tích cực lên CIWB.
Để hướng tới phát triển bền vững và nâng cao phúc lợi con người, các quốc gia có thu nhập trung bình thấp nên thực hiện một cuộc “cách mạng” chuyển đổi toàn diện. Chính phủ các quốc gia này nên có các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ và các ngành công nghiệp sạch như một nền tảng cho tăng trưởng xanh. Hơn nữa, việc đầu tư mạnh mẽ vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) các công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường là yếu tố then chốt, giúp tạo ra những đột phá công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.
*Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Kinh tế và các phòng ban liên quan của Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tác giả hoàn thành Đề tài “Nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phúc lợi con người tại nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp” với mã số CT.2025.01.
Tài liệu tham khảo:
1. Bunker (2019). Toward a theory of ecologically unequal exchange. In R. S. Frey, P. K. Gellert, & H. Dahms (Eds.), Ecologically unequal exchange (pp. 13-48). Switzerland: Palgrave Macmillan.
2. Ciccantell (2019). Ecologically unequal exchange and raw materialism: The material foundations of the capitalist world - economy. In R. S. Frey, P. K. Gellert, & H. Dahms (Eds.), Ecologically unequal exchange (pp. 49-73). Switzerland: Palgrave Macmillan.
3. Dietz, T., Rosa, E. A., & York, R. (2012). Environmentally efficient well-being: Is there a Kuznets curve? Applied Geography, 32(1), 21-28. doi: https://doi.org/10.1016/j.apgeog.2010.10.011.
4. Dietz, T, Rosa; E. A, & York, R (2009). Environmentally Efficient Well-Being: Rethinking Sustainability as the Relationship between Human Well-being and Environmental Impacts. Human Ecology Review, 16(1), 114-123.
5. Givens, J. E., Huang, X., & Jorgenson, A. K (2019). Ecologically unequal exchange: A theory of global environmental injustice. Sociology Compass, 13(5), 126-133. doi: https://doi.org/10.1111/soc4.12693.
6. Hachaichi, M., & Baouni, T. (2021). Virtual carbon emissions in the big cities of middle-income countries. Urban Climate, 40, 109-126. https://doi.org/10.1016/j.uclim.2021.100986.
7. Jorgenson, A. K (2006). Unequal Ecological Exchange and Environmental Degradation: A Theoretical Proposition and Cross-National Study of Deforestation, 1990-2000. Rural Sociology, 71(4), 685-712. https://doi.org/10.1526/003601106781262016.
8. Jorgenson, A. K (2014). Economic development and the carbon intensity of human well-being. Nature Climate Change, 4(3), 186-189. doi:10.1038/nclimate2110.
9. Jorgenson, A. K., & Clark, B (2012). Are the Economy and the Environment Decoupling? A Comparative International Study, 1960-2005. American Journal of Sociology, 118(1), 1-44. doi:10.1086/665990.
10. Sharma, B., & Gani, A (2004). The Effects of Foreign Direct Investment on Human Development. Global Economy Journal, 4(2), 185-215. doi:10.2202/1524-5861.1049.
| Ngày nhận bài: 4/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 23/9/2025; Ngày duyệt đăng: 24/9/2025 |



Bình luận