Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Đặng Thị Kim Thoa
Ngân hàng MB Long Biên
Email: Moclan919191@gmail.com
Tóm tắt
Ngân hàng thương mại là định chế tài chính quan trọng, đóng vai trò cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho nền kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường. Bài viết phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong năm 2024 và quý II/2025, chỉ ra các hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Hiệu quả hoạt động, ngân hàng, khó khăn, giải pháp
Summary
Commercial banks are vital financial institutions that provide the primary source of capital for the economy, promote productive forces, and serve as intermediaries between enterprises and the market. This paper analyzes the operational efficiency of Vietnamese commercial banks in 2024 and the second quarter of 2025, identifies existing limitations, and proposes several solutions to enhance the performance and sustainability of the Vietnamese banking system in the coming period.
Keywords: Operational efficiency, banking, challenges, solutions
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngân hàng và hoạt động của ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, giữ vai trò trọng yếu trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam. Vì thế, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách để duy trì và thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Thời gian qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước phát triển cả về quy mô tài sản, vốn, mạng lưới. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, cần có những giải pháp hiệu quả để đứng vững và phát triển, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu như hiện nay.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
Năm 2024, trước hàng loạt biến động từ lãi suất, tỷ giá, quy định bảo hiểm đến sự bất ổn của thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và tác động của thiên tai nhưng hoạt động của các ngân hàng vẫn khả quan, thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
Quy mô tài sản
Năm 2024, tổng tài sản các ngân hàng tăng mạnh. Ngân hàng Thương mại cổ phần (NHTMCP) Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tiếp tục giữ vị trí đứng đầu về tổng tài sản, bỏ xa các ngân hàng còn lại với hơn 2,76 triệu tỷ đồng. NHTMCP Công thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) và NH TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) xếp các vị trí tiếp theo trên bảng xếp hạng tổng tài sản (đều trên 2 triệu tỷ đồng).
Trong nhóm NHTMCP, NHTMCP Quân đội (MB) là ngân hàng duy nhất có tổng tài sản trên 1 triệu tỷ đồng; tiếp theo là: NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), NHTMCP Á Châu (ACB), NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB)…
Kết quả kinh doanh
Từ quý IV/2024, hoạt động của các ngân hàng đã khởi sắc mạnh mẽ, góp phần cải thiện đáng kể kết quả kinh doanh cả năm 2024. Thống kê lợi nhuận trước thuế của 27 ngân hàng trên sàn chứng khoán trong năm 2024, chỉ có 3 ngân hàng có lợi nhuận giảm, 4 ngân hàng có tăng trưởng một con số, còn lại đều ghi nhận mức tăng 2 con số, thậm chí BVBank còn đạt mức tăng bằng 5,4 lần so với năm trước. Vietcombank tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu trong cuộc đua lợi nhuận năm 2024, với mức lợi nhuận trước thuế vượt trội, đạt hơn 42.200 tỷ đồng (tăng 2,4% so với năm trước), bỏ xa các đối thủ còn lại. Trong nhóm Big4, VietinBank bứt phá mạnh mẽ trong quý IV/2024 với mức tăng 61%, đưa lợi nhuận cả năm tăng 27% so với cùng kỳ. Nhờ đó, ngân hàng này vươn từ vị trí thứ tư lên thứ hai, đạt 31.758 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. BIDV cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng hơn 17%, thu hẹp khoảng cách với VietinBank khi đạt hơn 31.300 tỷ đồng lợi nhuận. Một thành viên khác trong nhóm Big 4 là ngân hàng Agribank ước tính thu về lợi nhuận 27.927 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm trước và xếp ở vị trí thứ năm trong danh sách.
Ở nhóm ngân hàng tư nhân, MB, Techcombank và ACB tiếp tục dẫn đầu với lợi nhuận trước thuế tương ứng đạt 28.830 tỷ đồng (tăng 9,5%), 27.538 tỷ đồng (tăng 20,3%) và 21.006 tỷ đồng (tăng 4,7%). VPBank đạt lợi nhuận gần gấp đôi năm 2023, từ hơn 10.000 tỷ đồng năm trước lên hơn 20.000 tỷ đồng trong năm 2024. HDBank và Sacombank góp mặt trong Top 10 ngân hàng có lợi nhuận cao nhất năm với lợi nhuận trước thuế lần lượt đạt 16.000 tỷ đồng và 12.700 tỷ đồng, tương đương với mức tăng 22,9% và 32,4%.
Trong năm 2025, dù nền kinh tế trong nước và thế giới còn nhiều khó khăn, song các ngân hàng vẫn duy trì được mức tăng trưởng. Cụ thể, thống kê của Công ty Chứng khoán Rồng Vàng, lợi nhuận trước thuế của 27 ngân hàng trên sàn chứng khoán trong quý II/2025 đạt gần 89.000 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ (YoY), nhờ tăng trưởng tín dụng mạnh, thu hồi nợ xấu tích cực và chi phí tín dụng ổn định. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2025, lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng này đạt 172.000 tỷ đồng, tăng 16% và hoàn thành 49% tổng lợi nhuận trước thuế kế hoạch năm 2025. Động lực tăng trưởng chính cho doanh thu (+11% YoY) tiếp tục đến từ thu nhập lãi thuần (+8% YoY) và thu nhập từ hoạt động khác (+103% YoY).
Hình: Các cấu phần thu nhập, chi phí và tăng trưởng tương ứng ngành ngân hàng trong nửa đầu năm 2025

Nguồn: Báo cáo của Công ty Chứng khoán Rồng Vàng
Tuy nhiên, vẫn còn một số ngân hàng giảm lợi nhuận trong quý II/2025. MBBank giảm 2% lợi nhuận trước thuế do chi phí dự phòng tăng 139%. MSB sụt giảm 29% lợi nhuận trước thuế bởi không cải thiện được thu nhập lãi, chi phí dự phòng tăng nhanh, cao hơn mức trung bình toàn ngành. SeABank cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ việc cả thu nhập lãi lẫn thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán đều giảm sút.
Cá biệt, BVBank sụt giảm 84% lợi nhuận trước thuế so với quý II/2024. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc lãi thuần ở các mảng dịch vụ, kinh doanh và đầu tư chứng khoán tại BVBank đều sụt giảm. Cụ thể, lãi thuần từ hoạt động dịch vụ kỳ này ghi nhận lỗ 4 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái lãi 23 tỷ đồng. Lãi từ hoạt động kinh doanh khác giảm 28% so với quý II/2024, còn 23 tỷ đồng. Trong kỳ, ngân hàng này cũng không ghi nhận các khoản lợi nhuận từ chứng khoán, trong khi cùng kỳ năm ngoái có khoản lãi 7 tỷ đồng. Trong khi đó, chi phí hoạt động tại BVBank tăng 41,8% so với cùng kỳ 2024. Điều đáng lưu ý trong hiệu quả kinh doanh của các NHTM là biên lãi ròng (NIM) toàn Ngành thu hẹp; tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) nhìn chung được duy trì. NIM toàn Ngành giảm xuống khoảng 3,3% trong nửa đầu năm 2025 (so với 3,5% năm 2024 và mức đỉnh 3,8% năm 2022), trong khi ROA duy trì quanh mức ~1,5% nhờ chi phí tín dụng giảm và thu nhập ngoài lãi góp phần bù đắp áp lực biên lợi nhuận. NIM bị thu hẹp chủ yếu do chi phí huy động neo ở mức cao trong bối cảnh cạnh tranh huy động gay gắt và định hướng chính sách duy trì lãi suất tiền gửi, nhưng hạ lãi suất cho vay, khiến chênh lệch lãi suất bị thu hẹp; NIM của các ngân hàng niêm yết giảm xuống mức thấp nhất trong khoảng 5,5 năm tính đến quý II/2025 (FiinRatings, 2025).
Chất lượng tài sản
Năm 2024, hệ thống ngân hàng Việt Nam chứng kiến làn sóng nợ xấu tăng mạnh, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn, điều này phản ánh những khó khăn ngày càng lớn của doanh nghiệp trong nền kinh tế hậu COVID-19. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết năm 2024, tổng dư nợ tại các tổ chức tín dụng hơn 16,9 triệu tỷ đồng. Trong đó, nợ nhóm 2 (các khoản vay có dấu hiệu cảnh báo rủi ro) tại các NHTM là hơn 211.709 tỷ đồng, chiếm 1,25% tổng dư nợ. Con số này đã giảm 7% so với cuối năm 2023. Trong đó, nhóm NHTMCP chiếm phần lớn với hơn 118.756 tỷ đồng, tương đương 56,1% tổng nợ nhóm 2 của toàn bộ hệ thống NHTM. Tuy nhiên, tổng số dư nợ xấu (nợ nhóm 3-5) đã tăng 17% so với đầu năm, tương đương 32.621 tỷ đồng, nâng tổng số dư nợ xấu toàn Ngành lên 227.103 tỷ đồng.
Hết quý II/2025, nợ xấu ngành Ngân hàng đã được cải thiện tích cực hơn. Theo báo cáo tài chính quý II/2025 của 29 NHTM, dư nợ cho vay khách hàng tính đến ngày 30/6/2025 của các ngân hàng này là 14,767 triệu tỷ đồng (Bảng). Trong bối cảnh nợ xấu có xu hướng tăng chậm lại, các ngân hàng cũng chủ động kiểm soát chi phí trích lập dự phòng ở mức 37.000 tỷ đồng, tương đương với nợ xấu hình thành ròng trong kỳ và tăng 5% YoY. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu, do đó, đi ngang so với quý trước ở mức 91%. Hoạt động thu hồi nợ xấu đã xử lý rủi ro cũng tiến triển khả quan và phù hợp với diễn biến của thị trường bất động sản, ghi nhận gần 12.000 tỷ đồng thu nhập (tăng 52% so với quý trước (QoQ) và 37% YoY) (Công ty Chứng khoán Rồng Việt, 2025).
Bảng: Nợ xấu của các ngân hàng tại ngày 30/6/2025 và ngày 31/12/2024
Đơn vị tính: %
|
STT |
Ngân hàng |
Ngày 30/6/2025 |
Ngày 31/12/2024 |
|
1 |
VIETCOMBANK |
1 |
0,96 |
|
2 |
VIET A BANK |
1,11 |
1,37 |
|
3 |
BAC A BANK |
1,25 |
1,24 |
|
4 |
ACB |
1,28 |
1,51 |
|
5 |
VIETINBANK |
1,31 |
1,24 |
|
6 |
TECHCOMBANK |
1,32 |
1,17 |
|
7 |
AGRIBANK |
1,43 |
1,68 |
|
8 |
MB |
1,6 |
1,62 |
|
9 |
LPBANK |
1,74 |
1,57 |
|
10 |
SEABANK |
1,95 |
1,89 |
|
11 |
KIENLONG BANK |
1,96 |
2,02 |
|
12 |
BIDV |
1,98 |
1,41 |
|
13 |
TPBANK |
2,05 |
2,15 |
|
14 |
SACOMBANK |
2,46 |
2,4 |
|
15 |
VIETBANK |
2,51 |
2,75 |
|
16 |
HDBANK |
2,54 |
1,98 |
|
17 |
SHB |
2,56 |
2,9 |
|
18 |
EXIMBANK |
2,66 |
2,53 |
|
19 |
MSB |
2,7 |
2,68 |
|
20 |
ABBANK |
2,75 |
3,74 |
|
21 |
NAM A BANK |
2,85 |
2,33 |
|
22 |
PVCOMBANK |
3 |
3,14 |
|
23 |
SAIGONBANK |
3,21 |
2,66 |
|
24 |
PGBANK |
3,33 |
2,57 |
|
25 |
OCB |
3,52 |
3,17 |
|
26 |
VIB |
3,56 |
3,51 |
|
27 |
BVBANK |
3,83 |
3,09 |
|
28 |
VPBANK |
3,97 |
4,2 |
|
29 |
NCB |
11,35 |
19,54 |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NHỮNG HẠN CHẾ, TỒN TẠI
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển nhất định song hiệu quả hoạt động chưa đạt được kỳ vọng, vẫn còn nhiều hạn chế, thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng chưa cao. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa có một ngân hàng nào có phạm vi hoạt động mang tính khu vực và toàn cầu. Hệ thống ngân hàng hiện có nhiều loại hình hoạt động và đa dạng về hình thức sở hữu, tuy nhiên quy mô và năng lực tài chính còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cùng với đó, danh mục sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự hợp lý và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới.
Đặc biệt về nợ xấu, khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển thành nợ cần chú ý (SML) hoặc nợ xấu (NPL). Rủi ro này tập trung cao hơn ở các NHTMCP quy mô nhỏ, với bộ đệm vốn mỏng hơn.
Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, số lượng cán bộ có kỹ năng nghiệp vụ, cũng như quản trị điều hành và hoạch định chính sách tốt còn ít, các chương trình đào tạo còn chưa thật sát với yêu cầu thực tế. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp hiện cũng đang là một thách thức lớn. Hệ thống thanh tra giám sát và các quy định an toàn, thận trọng còn có khoảng cách xa với khu vực và thế giới.
Hai là, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Các NHTM nước ngoài hiện chỉ nắm giữ thị phần thiểu số trên thị trường ngân hàng Việt Nam, nhưng sẽ có ưu thế gần như toàn diện trong tương lai khi mà các quy định hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng nước ngoài được nới lỏng dần để thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng.
Ba là, rủi ro của hệ thống ngân hàng còn lớn. Cụ thể, cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan. Năng lực quản trị, quản trị rủi ro chưa được phát triển đầy đủ để giải quyết một cách hiệu quả các rủi ro về thị trường và hoạt động. Ngoài ra, còn có những hạn chế đến từ việc hạ tầng tài chính chưa phát triển đầy đủ, hay việc chính sách chưa theo kịp sự phát triển của công nghệ ngân hàng...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN
Thứ nhất, tiếp tục cơ cấu lại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một số vấn đề cần được giải quyết trong giai đoạn này là nâng cao các quy định về mức độ đủ vốn, xây dựng chiến lược tăng vốn đi kèm với sử dụng vốn hợp lý để đảm bảo phát triển bền vững. Vấn đề nợ xấu cần được giải quyết. Để hạn chế nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức tín dụng hoạt động không lành mạnh; kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của pháp luật. Các NHTM cần đánh giá lại các khoản vay để xem xét các ngành nghề và doanh nghiệp đang có vấn đề, cũng như thường xuyên cập nhật tình hình trả nợ khách hàng để có phương án xử lý kịp thời, tránh bị động. Trong bối cảnh thị trường biến động khó lường, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng cần có kịch bản phản ứng chính sách nhanh và hiệu quả khi có cú sốc giảm giá sâu của thị trường bất động sản và giá cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán, làm cho giá trị tài sản bảo đảm của NHTM giảm thấp và kéo theo tài sản có của ngân hàng bị định giá thấp, khiến gặp rủi ro thua lỗ.
Mức độ sinh lời của hệ thống NHTM cần được cải thiện thông qua đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ; tăng thu từ lãi thông qua tiếp tục mở rộng cấp tín dụng dựa trên một số cơ sở nhất định; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại để giảm chi phí giao dịch; tăng cường trau dồi chuyên môn cho ban kiểm soát. Cơ sở vật chất hạ tầng của ngân hàng cũng cần được cải thiện. Thể chế, chính sách, như: đảm bảo quyền sở hữu tài sản, xây dựng hành lang pháp lý có hiệu quả và tăng cường minh bạch thông tin cần được sớm xây dựng và hoàn thiện.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị, điều hành đối với ngân hàng. Với đặc thù là tổ chức kinh doanh tiền, hoạt động của ngân hàng có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn, nên công tác quản trị đặc biệt quan trọng, bởi ngân hàng là nguồn tài chính bên ngoài cực kỳ quan trọng đối với doanh nghiệp. Để quản trị tốt, cần nâng cao hiệu quả giám sát ngân hàng theo chuẩn quốc tế Basel II, tập trung vào 3 trụ cột chính: giám sát an toàn vi mô, giám sát an toàn vĩ mô và yêu cầu về minh bạch thông tin. Điều này giúp tăng cường năng lực quản lý rủi ro và ổn định tài chính cho các ngân hàng, hướng tới mục tiêu quản trị tốt hơn.
Thứ ba, các NHTMcần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ tài chính hiện đại, ứng dụng điện toán đám mây (IoT), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI), phát triển nguồn nhân lực, mở rộng mạng lưới, tăng cường cơ sở vật chất, tiếp thu kinh nghiệm quản trị điều hành theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Tài liệu tham khảo:
1. Công ty Chứng khoán Rồng Việt (2025). Báo cáo chiến lược đầu tư nửa cuối năm 2025: “Độc Đạo”.
2. FiinRatings (2025). Báo cáo “Tâm điểm ngành Ngân hàng Việt Nam”.
3. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2025). Báo cáo Tổng hợp thông tin hội viên trong tháng 1/2025.
4. Hoàng Việt (2025). Khoảng sáng trong bức tranh lợi nhuận ngân hàng. https://baodauthau.vn/khoang-sang-trong-buc-tranh-loi-nhuan-ngan-hang-post183176.html
5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2025). Tài liệu Hội nghị trực tuyến triển khai nhiệm vụ ngành Ngân hàng năm 2025.
|
Ngày nhận bài: 15/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/10/2025; Ngày duyệt đăng: 27/10/2025 |

Bình luận