TS. Kiều Anh Vũ

Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh

Email: k.avu@hcmca.edu.vn

Tóm tắt

Sự đồng bộ và đa dạng các loại hình dịch vụ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nông nghiệp đô thị phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, các nhân tố cơ bản, có tác động lớn đến dịch vụ cho phát triển nông nghiệp đô thị ở Việt Nam như: đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước; đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực đô thị; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Bài viết phân tích, làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ cho phát triển nông nghiệp đô thị ở Việt Nam, từ đó cung cấp thêm những luận cứ khoa học góp phần định hình các giải pháp khả thi, thiết thực nhằm hỗ trợ, thúc đẩy các dịch vụ hình thành đầy đủ, đồng bộ để phát triển nông nghiệp đô thị ở Việt Nam thời gian tới theo hướng hiện đại, bền vững.

Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, dịch vụ, nông nghiệp đô thị

Summary

The synchronization and diversification of service types play a crucial role in promoting the development of urban agriculture. In the current context, several key factors significantly influence services supporting urban agriculture development in Viet Nam, including the guidelines and policies of the Party and the State, the socio-economic characteristics of metropolitan areas, the Fourth Industrial Revolution, and the country’s process of international economic integration. This paper analyzes and clarifies these influencing factors, thereby providing scientific arguments to shape feasible and practical solutions that facilitate and promote the comprehensive formation of services for urban agriculture development in Viet Nam today.

Keywords: Influencing factors, services, urban agriculture

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sản xuất nông nghiệp tại các khu vực đô thị, hay còn gọi là nông nghiệp đô thị đang ngày càng được các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện cho phát triển. Nông nghiệp đô thị diễn ra ở vùng thành thị hoặc ven đô được tích hợp rất nhiều hoạt động, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp cùng các hoạt động kinh tế, tiếp thị, kinh doanh nhằm mang lại nguồn thu nhập và phúc lợi, tạo cảnh quan đẹp và bảo vệ môi trường; cải thiện sức khỏe và môi trường sống cho cộng đồng cư dân nội thị và ngoại thị (Hồ Cao Việt, 2013). Với lợi thế là sản xuất ngay trong nội thành và khu vực ngoại ô, nông nghiệp đô thị có thể sản xuất, chế biến và cung ứng một lượng lớn thực phẩm tươi sống, các loại hoa, sinh vật cảnh và một phần lương thực phục vụ cho cư dân thành phố. Nông nghiệp đô thị diễn ra trong điều kiện hạn chế về diện tích, nên thường gắn với kỹ thuật, công nghệ cho năng suất cao, phương pháp canh tác hữu cơ, do đó mang lại nhiều lợi ích cho các đô thị hiện đại ngày nay.

Cùng với sự phát triển của nông nghiệp ở thành phố là sự xuất hiện của các lĩnh vực dịch vụ có liên quan. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở các thành phố trên thế giới cho thấy, nếu được tạo điều kiện thuận lợi từ phía chính quyền, được cung cấp đầy đủ các dịch vụ từ khâu khởi nghiệp, sản xuất đến khâu chế biến, bảo quản, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và bán hàng, thì nông nghiệp đô thị sẽ phát triển mạnh, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của đô thị, đặc biệt là các thành phố lớn, có dân số đông. Như vậy, ngành dịch vụ nông nghiệp không chỉ cần được tổ chức tốt để nâng cao hiệu quả kinh doanh, mà quan trọng hơn là cần có sự gắn kết để góp phần nâng cao hiệu quả, phát triển nền nông nghiệp đô thị theo hướng hiện đại và bền vững. Đây là vấn đề cần thiết được nghiên cứu về mặt lý luận, để xác định nội hàm khái niệm, nhân tố ảnh hưởng, đặc điểm, vai trò của dịch vụ cho phát triển nông nghiệp đô thị. Trên cơ sở đó, đưa ra những phương thức, mô hình, giải pháp khả thi thúc đẩy dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị mà thực tiễn đang đặt ra đối với Việt Nam hiện nay.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Dịch vụ là ngành có vai trò to lớn đối với các hoạt động sản xuất và cả tiêu dùng của xã hội. Với xu hướng phát triển nông nghiệp đô thị trên thế giới ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, việc phát triển các dịch vụ nông nghiệp tại địa bàn đặc thù này cũng được nhiều quốc gia quan tâm, tạo điều kiện thúc đẩy nông nghiệp đô thị phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.

Trong nghiên cứu “Agricultural services on the demand and supply for improving agricultural productivity in Benin”, các tác giả cho rằng: dịch vụ nông nghiệp đề cập đến các hoạt động thị trường (cung cấp đầu vào và thiết bị, tín dụng, chăm sóc thú y, chứng nhận sản phẩm) và các hoạt động phi thị trường (mở rộng, tư vấn và đào tạo) cần thiết để cải thiện hiệu quả hoạt động của các trang trại/doanh nghiệp nông nghiệp, tiếp cận thị trường và khả năng cạnh tranh của họ (Herve S. Colman và cộng sự, 2021). Theo tác giả Lawrence D. Smith, dịch vụ nông nghiệp được hiểu là “nhóm các dịch vụ gồm cung cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp tín dụng, tư vấn/cung cấp thông tin kiến thức nông nghiệp, đào tạo kỹ thuật nông nghiệp, cung cấp cơ sở hạ tầng, marketing sản phẩm nông nghiệp” (Nguyễn Thị Thanh, 2020). Nghiên cứu về phát triển dịch vụ nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội, tác giả Nguyễn Văn Lân (2015) đã xác định: Dịch vụ nông nghiệp là loại hình hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp chuyên cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra cho quá trình sản xuất hàng hóa nông nghiệp, nhằm mục đích nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của hộ gia đình và xã hội.

Như vậy, có thể hiểu, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị là tổng thể các hoạt động phục vụ cho sản xuất và lưu thông trong nông nghiệp, do đa dạng các chủ thể cung cấp và sử dụng, nhằm tăng năng suất, chất lượng, kết quả sản xuất - kinh doanh, hướng tới phát triển nền nông nghiệp đô thị hiện đại, bền vững. Dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp tại đô thị. Các hoạt động này được thể hiện qua việc cung cấp và sử dụng các loại hình dịch vụ trong nông nghiệp; đồng thời phản ánh mối quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình cung ứng và tiếp nhận các dịch vụ đó, với mục tiêu đáp ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp cũng như nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cư dân đô thị.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu lý thuyết, chủ yếu là tổng hợp và phân tích các công trình nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nước liên quan đến dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu trước đó, phân tích quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước và tình hình thực tiễn tại Việt Nam, tác giả chỉ ra và phân tích các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng mạnh tới dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị tại Việt Nam. Do nghiên cứu sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp để phân tích, vì vậy chưa thể đánh giá được mức độ ảnh hưởng hay mối tương quan giữa các yếu tố, nên khoảng trống này có thể được bổ sung bằng các nghiên cứu định lượng trong tương lai.

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỊCH VỤ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, Nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều tiết và khắc phục những hạn chế của nền kinh tế. Cũng như nhiều quốc gia khác, những cơ chế, chính sách nhà nước ban hành và triển khai thực hiện sẽ có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các ngành, lĩnh vực. Ở Việt Nam, các chủ trương, đường lối của Đảng sẽ được Nhà nước cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật, có tác động lớn tới sự phát triển của các ngành, lĩnh vực và của toàn xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng phát triển nông nghiệp. Tại Nghị quyết số 19-NQ/TW (Ban Chấp hành Trung ương, 2022), Đảng ta đã khẳng định: “Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, là trụ đỡ của nền kinh tế”; đồng thời xác định: “Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn”. Quan điểm chuyển mạnh tư duy từ "sản xuất nông nghiệp" sang "phát triển nông nghiệp" gắn với nhu cầu thị trường, đã cho thấy cần phải đẩy mạnh chuyên môn hóa sâu trong nông nghiệp. Đảng cũng chủ trương nâng tầm thương hiệu nông sản Việt Nam, hay đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế biến và xuất khẩu nông sản của thế giới. Đây chính là cơ sở để Nhà nước ban hành những quy định pháp luật, những chính sách, kế hoạch, chương trình thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp xanh gắn kết với chế biến và tiêu thụ. Điều này sẽ tác động mạnh mẽ tới việc hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp nói chung và dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ở các đô thị nói riêng.

Để thực hiện định hướng phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng xanh, hiện đại, Nhà nước và chính quyền địa phương cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng để người sản xuất thực hiện chuyển đổi; hỗ trợ về tư vấn, giới thiệu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp. Các chính sách khuyến khích liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích sản xuất theo chuỗi giá trị, cùng nhiều chính sách khuyến nông khác cũng sẽ tác động lớn tới sự phát triển các loại hình dịch vụ trong lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với đó là những chính sách đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cũng như hỗ trợ sản xuất nông nghiệp (các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho nông nghiệp). Bên cạnh đó, các chính sách phát triển nông nghiệp nội và ngoại thành của mỗi thành phố, mỗi đô thị theo mục tiêu của từng địa phương cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới phát triển các loại hình dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Ngoài ra, chính sách của Nhà nước về sử dụng đất nông nghiệp cũng có ảnh hưởng tới việc phát triển các dịch vụ triển khai sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt như dịch vụ cung ứng, lắp đặt máy móc, thiết bị hay xây dựng cơ sở vật chất (như nhà màng, nhà kính, …) phục vụ sản xuất theo hướng hiện đại.

Đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực đô thị

Quá trình phát triển đô thị hay đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có nước ta. Quá trình đó làm hình thành ngày càng nhiều các thành phố, các đô thị. Ở Việt Nam, theo thống kê từ danh sách đơn vị hành chính của Việt Nam (trước khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết 202/2025/QH15), cả nước có 6 thành phố trực thuộc Trung ương, 2 thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (Thủ Đức - TP. Hồ Chí Minh; Thủy Nguyên - TP. Hải Phòng) và 85 thành phố thuộc tỉnh (Nguyễn Thảo, 2025). Thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó có việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết 202/2025/QH15 và mô hình chính quyền địa phương 2 cấp theo Nghị quyết 203/2025/QH15, từ ngày 1/7/2025, Việt Nam còn 6 thành phố (trong tổng số 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh), 687 phường (trong tổng số 3.321 đơn vị cấp xã). Dù có nhiều thay đổi về đơn vị hành chính nhưng đô thị hóa vẫn là một xu hướng trong tiến trình phát triển, có tác động lớn đến sinh thái và đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực. Đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư đồng thời thay đổi cả tâm lý, lối sống của người dân. Các đô thị là nơi có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội rất phát triển, có tính liên thông, đồng bộ. Do đó, đây cũng là nơi các hoạt động kinh tế luôn sôi động hơn hẳn so với khu vực nông thôn, đặc biệt là các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Đô thị là nơi tập trung đông dân cư, thường với mật độ rất cao, do đó đây luôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn các hàng hóa, dịch vụ. Mặt khác, nơi đây có nếp sống văn hóa của thị dân, có nhu cầu tiêu dùng nhiều loại hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt.

Chính từ quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là ở những nước đang phát triển như Việt Nam, mà việc sản xuất nông nghiệp ngay tại đô thị đang được nhiều quốc gia, địa phương chú trọng. Điều này xuất phát từ việc nông nghiệp đô thị không những góp phần quan trọng trong việc cung ứng tại chỗ nguồn thực phẩm tươi sống cho người dân thành thị, mà còn tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, tạo cảnh quan đô thị; đồng thời góp phần giảm hiệu ứng nhà kính, bảo vệ môi trường. Sản xuất nông nghiệp diễn ra tại các đô thị, nơi kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ cũng như tính chuyên môn hóa trong lao động, sản xuất rất cao, tạo cơ sở thúc đẩy các loại dịch vụ cung ứng cả các yếu tố đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Đối với các yếu tố đầu vào, ở đô thị có nhiều thuận lợi để hình thành các đơn vị cung cấp dịch vụ về vốn, thiết bị, vật tư, công nghệ,… cho sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, với đặc điểm của nông nghiệp đô thị thường gắn với ứng dụng công nghệ cao, nên có nhiều khả năng thúc đẩy phát triển các loại dịch vụ về tư vấn, thiết kế, lắp đặt và chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Mặt khác, khu vực thành thị là nơi tập trung đông dân cư, thị trường tiêu thụ lượng lớn các mặt hàng nông sản, nên các dịch vụ như giới thiệu, trưng bày, bán hàng nông sản phát triển mạnh; cùng với đó là các dịch vụ về hội chợ, triển lãm, nghiên cứu, phát triển thị trường. Nông nghiệp đô thị cũng chủ yếu diễn ra ở khu vực ngoại thành, mà khu vực tiêu thụ chính là nội thành, do vậy, thúc đẩy các dịch vụ vận chuyển, kho bãi hình thành. Khu vực thành phố còn là nơi diễn ra các hoạt động xuất nhập khẩu nông sản, nhu cầu về việc đóng gói, bảo quản, chiếu xạ, hay làm các thủ tục hải quan cũng đặt ra yêu cầu phát triển đa dạng các loại dịch vụ này.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra từ đầu thế kỷ XXI, đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong khoảng hơn 10 năm nay. Cuộc cách mạng này được cho sẽ làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Giáo sư Klaus Schwab - Chủ tịch, người sáng lập Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), cho rằng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ không giống với bất cứ điều gì nhân loại đã từng trải qua cả về quy mô, phạm vi và độ phức tạp của nó (Klaus Schwab, 2018). Đối với lĩnh vực nông nghiệp, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh, với những tác động mạnh mẽ tới cả đầu vào và đầu ra của ngành nông nghiệp. Sự phát triển của công nghệ sinh học cho phép tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi phù hợp điều kiện sinh trưởng trong nhiều điều kiện, cho năng suất và chất lượng cao. Các công nghệ như tự động hóa, internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI)… góp phần hình thành mô hình nông nghiệp chính xác, các thiết bị cảm biến và thiết bị thông minh có khả năng kết nối và điều khiển tự động trong quá trình sản xuất nông nghiệp, thực hiện thu thập và phân tích dữ liệu, từ đó đưa ra quyết định kịp thời, phản ứng nhanh chóng trước các biến đổi không ngừng của môi trường tự nhiên. Công nghệ đèn LED được sử dụng đồng bộ trong canh tác kỹ thuật cao để tối ưu hóa quá trình sinh trưởng, rất phù hợp với nông nghiệp ở khu vực đô thị hay các quốc gia có quỹ đất nông nghiệp hạn chế.

Cùng với đó, công nghệ nhà kính, nhà lưới, công nghệ thủy canh, khí canh nhằm cách ly môi trường tự nhiên, giúp ứng phó với những điều kiện thời tiết không thuận lợi, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Tế bào quang điện (Solar cells) được ứng dụng để tạo ra điện mặt trời, giảm chi phí năng lượng trong trang trại nông nghiệp. Sử dụng Robot thay cho việc chăm sóc cây trồng, vật nuôi ngày càng trở nên phổ biến, rất phù hợp với nông nghiệp đô thị hiện đại. Các thiết bị bay không người lái (Drones) và các vệ tinh (Satellites) được ứng dụng trong việc gieo hạt, rải phân bón, phun thuốc bảo vệ thực vật hay phức tạp hơn là để khảo sát thực trạng thu thập dữ liệu của các trang trại, từ đó phân tích rồi đưa ra khuyến nghị trên cơ sở dữ liệu cập nhật được, để quản lý trang trại chính xác… Những thành tựu của công nghệ thông tin và truyền thông không những giúp quản lý quy trình sản xuất nông nghiệp tốt hơn mà còn thuận lợi trong việc kết nối người sản xuất với người tiêu dùng và với thị trường.

Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh ở các đô thị cũng tạo ra những nhu cầu lớn về các loại dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại. Đó là nhu cầu về các dịch vụ tài chính để có thể đầu tư thiết bị, công nghệ cho sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; nhu cầu về huấn luyện, đào tạo, về tư vấn, thiết kế, lắp đặt và chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp; nhu cầu về các dịch vụ số, dịch vụ thông tin và truyền thông,…

Mặt khác, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tác động trực tiếp tới chính các hoạt động cung ứng dịch vụ cho phát triển nông nghiệp, làm thay đổi về cách thức và nâng cao hiệu quả của các dịch vụ này. Ví dụ như các dịch vụ tài chính số, làm thủ tục hành chính trực tuyến, công tác khuyến nông hay giới thiệu, quảng bá sản phẩm nông nghiệp, bán hàng… cũng được thực hiện dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Từ những năm 1990, Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, rồi Mỹ, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức khu vực và thế giới quan trọng, như ASEAN, ASEM, APEC, WTO,… Trong tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện, từ kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội… thì hội nhập kinh tế quốc tế được xác định là nội dung trọng tâm, quan trọng trong quá trình đổi mới ở nước ta. Đến nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước thu được nhiều kết quả quan trọng, cả về đầu tư, thương mại hay hợp tác và chuyển giao công nghệ. Việc tham gia rất nhiều các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là FTA thế hệ mới, tiêu biểu như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), đã mở ra nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu nhiều hơn vào thị trường thế giới, kể cả những thị trường khó tính. Đây cũng chính là cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ cho nông sản Việt Nam, từ đó thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp trong nước theo hướng vừa tăng về số lượng, vừa nâng cao về chất lượng, chủng loại, mẫu mã. Để đáp ứng yêu cầu khắt khe của những thị trường lớn, đặc biệt là về điều kiện sản xuất an toàn thực phẩm, chất lượng, sự ổn định và quy trình, công nghệ, đặt ra nhu cầu sử dụng nhiều loại dịch vụ cho phát triển nông nghiệp hiện đại, hướng tới xuất khẩu. Đó là những dịch vụ cung cấp máy móc, thiết bị, vật tư cho sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế, hay những dịch vụ tư vấn, hỗ trợ, thực hiện các hoạt động như kiểm nghiệm, cấp giấy chứng nhận, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường và các dịch vụ liên quan tới vận chuyển, đóng gói, bảo quản, chiếu xạ, kho bãi, thủ tục hải quan…

Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của các đơn vị cung ứng dịch vụ nông nghiệp ở khu vực đô thị. Các đơn vị này phải nghiên cứu, nắm chắc các quy định của pháp luật trong nước và quốc tế, nắm vững những điều khoản và qui định của các FTA Việt Nam tham gia, để cung cấp những dịch vụ thực sự thiết thực và chất lượng cho phát triển nông nghiệp. Điều đó không những góp phần làm cho nền nông nghiệp Việt Nam phát triển mà cũng làm cho chính bản thân các đơn vị cung cấp dịch vụ ngày càng lớn mạnh.

Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, cùng nhiều FTA được Việt Nam ký kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các nông sản chất lượng của thế giới thâm nhập vào thị trường nội địa với giá rẻ hơn. Đặc biệt, đô thị là nơi mà người dân thường có thu nhập cao hơn, có nhu cầu sử dụng sản phẩm nông nghiệp chất lượng tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, … Điều này sẽ gia tăng áp lực cạnh tranh đối với nền nông nghiệp trong nước nói chung và nông nghiệp ở khu vực thành phố nói riêng. Để tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm, quy trình sản xuất hiện đại, thân thiện môi trường, có khả năng cạnh tranh cao, cần phát triển nền nông nghiệp đô thị với sự chuyên môn hóa cao, từ đó thúc đẩy phát triển các đơn vị cung cấp dịch vụ cho nông nghiệp. Đây cũng là yêu cầu đặt ra khi sản xuất nông nghiệp phải chú trọng sự chuyên môn hóa - người sản xuất sẽ tập trung vào những hoạt động cốt lõi, thế mạnh của mình, còn các khâu khác sẽ sử dụng dịch vụ để tăng tính hiệu quả và giảm chi phí.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu cho thấy, sự hình thành đầy đủ, đồng bộ các loại hình dịch vụ cho phát triển nông nghiệp đô thị là rất cần thiết ở Việt Nam hiện nay. Dịch vụ góp phần tư vấn, hỗ trợ, thúc đẩy nông nghiệp đô thị từ khâu ý tưởng sản xuất, kinh doanh, thiết kế và vận hành mô hình, cung ứng dịch vụ các yếu tố đầu vào, các yếu tố đầu ra, … theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, bền vững. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp đô thị hiện nay ở Việt Nam, để thúc đẩy các dịch vụ này phát triển, qua đó phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng hiện đại, bền vững cần quan tâm các vấn đề như: Thứ nhất, sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt tài chính, điều kiện tiếp cận và sử dụng các nguồn tài nguyên (đặc biệt là tài nguyên đất); Thứ hai, tạo điều kiện phát triển các dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, dịch vụ xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường, đa dạng các kênh bán hàng, dịch vụ gia tăng giá trị nông sản (phân loại, bảo quản, đóng gói, chiếu xạ, chế biến,…); Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các dịch vụ công cho phát triển nông nghiệp đô thị, đặc biệt là các dịch vụ về khuyến nông, ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, quảng bá, giới thiệu, bán sản phẩm thông qua hội chợ, triễn lãm.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Herve, S. C. and partners. (2021). Agricultural services on the demand and supply for improving agricultural productivity in Benin. Journal of Development and Agricultural Economics, Vol 13(3), pp. 227-237.

3. Hồ Cao Việt (2013). Cơ sở khoa học của các hình thái phát triển nông nghiệp đô thị và vận dụng cho Đồng bằng sông Cửu Long. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Khoa học - công nghệ trong phát triển nông nghiệp bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội. Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.

4. Klaus Schwab (2018). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hà Nội. Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.

5. Nguyễn Thảo (2025). Điểm danh 85 thành phố thuộc tỉnh trước khi bỏ cấp huyện. Báo điện tử Vietnanet. https://vietnamnet.vn/diem-danh-84-thanh-pho-thuoc-tinh-khi-bo-cap-huyen-2381256.html.

6. Nguyễn Thị Thanh (2020). Chất lượng dịch vụ công phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, (5), tr. 378-389.

7. Nguyễn Văn Lân (2015). Phát triển dịch vụ nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội. Tạp chí Kinh tế và dự báo, (2), tr. 54-55.

Ngày nhận: 1/10/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 24/10/2025; Ngày duyệt đăng: 27/10/2025