ThS., NCS. Trần Hữu Đồng

Ban Chính sách, chiến lược Trung ương

Tóm tắt

Nghiên cứu tập trung phân tích những kết quả đạt được trong liên kết vùng ở Việt Nam hiện nay; đồng thời xác định những hạn chế liên quan đến chất lượng tăng trưởng, quy hoạch, hạ tầng, liên kết vùng… Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng bền vững. Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách phát triển vùng của Việt Nam, hướng tới mục tiêu tăng trưởng cân bằng, giảm chênh lệch vùng miền và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đến năm 2030.

Từ khóa: Liên kết vùng, quy hoạch vùng, phát triển kinh tế - xã hội

Summary

The study examines the current achievements of regional linkages in Viet Nam and identifies key limitations related to growth quality, spatial planning, infrastructure, and inter-regional cooperation. On that basis, the author proposes solutions to foster sustainable regional economic development. The findings contribute scientific and practical insights to support regional development policymaking in Viet Nam, aiming for balanced growth, reduced regional disparities, and enhanced national competitiveness by 2030.

Keywords: Regional linkage, regional planning, socio-economic development

ĐẶT VẤN ĐỀ

Công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế quốc gia trong gần 4 thập kỷ qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song sự phát triển giữa các vùng, miền vẫn còn thiếu cân đối, hiệu quả khai thác tiềm năng vùng chưa tương xứng với lợi thế sẵn có. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu phát triển kinh tế bền vững và thu hẹp chênh lệch vùng miền đang đặt ra những thách thức lớn đối với Việt Nam.

Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển và liên kết vùng, thể hiện qua các Nghị quyết, chính sách, pháp luật và các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ. Liên kết vùng không chỉ được coi là công cụ quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát huy lợi thế so sánh, mà còn là giải pháp then chốt trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả đầu tư công và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Đặc biệt, sau Đại hội lần thứ XI của Đảng, vấn đề liên kết và phát triển vùng càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh yêu cầu phối hợp phát triển giữa các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm ngày càng rõ nét. Do đó, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp tiếp tục phát triển, tăng cường liên kết vùng ở Việt Nam đến năm 2030 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.

MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VỀ PHÁT TRIỂN LIÊN KẾT VÙNG TỪ ĐẠI HỘI XIII ĐẾN NAY

Đại hội XIII của Đảng định hướng phát triển các vùng chủ yếu như sau: (i) Vùng Trung du và miền núi phía Bắc được định hướng trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện; (ii) Vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; (iii) Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; (iv) Vùng Tây Nguyên phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; giàu bản sắc văn hóa dân tộc, điểm đến đặc sắc, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế; (v) Vùng Đông Nam Bộ có cơ cấu kinh tế hiện đại, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; (vi) Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, bền vững, hiện đại, sinh thái, văn minh, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước.

Đồng thời, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 đã đề ra định hướng: “Phát triển tổng thể, mang tính hữu cơ, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng thành một thể thống nhất. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và bố trí nguồn lực nhằm phát huy lợi thế vùng. Tập trung xây dựng quy hoạch vùng mang tính chất đột phá theo hướng tích hợp, đa ngành, hình thành chuỗi giá trị và triển khai thực hiện hiệu quả, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và thể chế điều phối phát triển kinh tế vùng đủ mạnh; quan tâm hơn đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng biên giới, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch gắn với đô thị hóa trở thành động lực phát triển vùng”.

Triển khai các chủ trương về phát triển, liên kết vùng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030, trong năm 2022, Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của 6 vùng, bao gồm: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6/10/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 3/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đồng thời, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành thêm 4 nghị quyết về phát triển các địa phương, tỉnh như: Khánh Hòa; Nghệ An; Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Đến nay, có 9 nghị quyết/kết luận về phát triển các tỉnh/thành và 1 kết luận về phát triển thành phố trực thuộc tỉnh (trước khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh và mô hình chính quyền địa phương 2 cấp). Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của liên kết vùng, tạo không gian phát triển mới, có tính gắn kết, liền mạch hơn, Chính phủ còn ban hành Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 về các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế - xã hội.

Công tác quán triệt, tuyên truyền về các Nghị quyết phát triển các vùng và một số địa phương trọng điểm được triển khai bài bản, đồng bộ, sâu rộng, kịp thời, toàn diện. Trong đó: Bộ Chính trị đã tổ chức 6 hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt các nghị quyết về phát triển vùng; Ban Bí thư đã tổ chức 4 hội nghị quán triệt nghị quyết phát triển các địa phương; cấp ủy đảng các cấp đã tổ chức nhiều hội nghị để quán triệt các nghị quyết về vùng và địa phương. Nhờ vậy, nhận thức và tổ chức triển khai các chủ trương, định hướng liên kết, phát triển vùng ngày càng được nâng cao.

Công tác thể chế hóa các nghị quyết về phát triển các vùng và các địa phương trọng điểm được tiến hành khá đồng bộ, khoa học, có tính hệ thống. Chính phủ đã ban hành các chương trình hành động thực hiện các nghị quyết phát triển các vùng và các địa phương trọng điểm với các cơ chế, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án cụ thể; đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; đã phê duyệt và ban hành 6 quy hoạch các vùng và 59/63 quy hoạch các tỉnh/thành phố (trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh); tích cực nghiên cứu để xây dựng, hoàn thiện thể chế liên kết vùng và các cơ chế, chính sách đặc thù vùng; rà soát, sửa đổi, một số luật; dự án để thực hiện nhiệm vụ phát triển vùng và địa phương.

Để triển khai thực hiện các chủ trương của Bộ Chính trị về phát triển vùng, Chính phủ cũng đã ban hành các nghị quyết về Chương trình hành động thực hiện các nghị quyết về phát triển 6 vùng của Bộ Chính trị, nhằm tạo sự thống nhất cao, nâng cao nhận thức và cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp; đồng thời, từng bước hoàn thiện thể chế, thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp liên kết giữa các vùng và giữa các địa phương trong vùng. Ngày 11/7/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định số 824/QĐ-TTg; Quyết định số 825/QĐ-TTg; Quyết định số 826/QĐ-TTg; Quyết định số 827/QĐ-TTg về thành lập Hội đồng điều phối vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Tây Nguyên. Tiếp đó, ngày 19/8/2023, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 974/QĐ-TTg về thành lập Hội đồng Điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Quyết định số 975/QĐ-TTg về thành lập Hội đồng Điều phối vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Hội đồng điều phối vùng là tổ chức phối hợp liên các ngành, do Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, thực hiện chức năng nghiên cứu, chỉ đạo, điều phối, giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành về liên kết vùng, phát triển bền vững vùng.

Mặt khác, Quốc hội đã thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; thông qua 37 văn bản pháp luật, quyết nghị nhiều chủ trương, chính sách quan trọng liên quan đến liên kết và phát triển vùng; ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù cho 10 tỉnh, thành phố. Các bộ, ngành đã chủ động ban hành và triển khai nhiều nhiệm vụ liên kết vùng thông qua các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao; quan tâm giải quyết các đề xuất, kiến nghị về liên kết, phát triển vùng.

Qua đó, công tác phát triển kinh tế - xã hội các vùng đạt được nhiều kết quả; các hoạt động liên kết phát triển vùng được tích cực triển khai, tiêu biểu như:

(i) Quy hoạch không gian lãnh thổ quốc gia được tổ chức khá hợp lý, là định hướng quan trọng để phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng, liên vùng; một số không gian phát triển mới và chuỗi giá trị được hình thành. Quy hoạch các vùng được nghiên cứu khoa học, bài bản theo hướng tích hợp được quy hoạch các ngành, lĩnh vực và quy hoạch các địa phương; là cơ sở quản lý phát triển vùng để đảm bảo các địa phương trong vùng liên kết chặt chẽ dần trở thành một thể thống nhất. Không gian phát triển các địa phương theo quy hoạch được tổ chức hợp lý hơn nhằm khai thác hiệu quả các thế mạnh về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị, nguồn nhân lực... của từng địa phương nhằm thực hiện mục tiêu chung của vùng.

(ii) Hội đồng điều phối các vùng đã được thành lập với chức năng, nhiệm vụ chính là giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, điều phối giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành về liên kết vùng, Một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển các vùng đang được Hội đồng vùng, các bộ, ngành tiếp tục nghiên cứu và triển khai. Nguồn lực để triển khai một số công trình, dự án được bố trí để phát huy lợi thế vùng, các địa phương. Mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế được đổi mới để dần trở thành động lực phát triển vùng. các khu kinh tế từng bước đổi mới, đa dạng hóa để hình thành các khu công nghiệp, khu chức năng mới để thích ứng với yêu cầu trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Các hành lang kinh tế được quy hoạch và tích cực triển khai nhằm thúc đẩy liên kết, hội nhập quốc tế. Một số thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng được lựa chọn để nghiên cứu, đầu tư, xây dựng thành trung tâm kinh tế, tài chính lớn của cả nước và quốc tế. Hệ thống đô thị của các vùng được tiếp tục nâng cấp, mở rộng đảm bảo dần phù hợp với chức năng của từng vùng; định hướng phân bố các vùng đô thị lớn đang được nghiên cứu và tổ chức triển khai để chia sẻ chức năng với các đô thị lớn và hình thành các vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ.

(iii) Tốc độ tăng trưởng các vùng được duy trì, một số địa phương có tốc độ tăng trưởng nhanh như Quảng Ninh, Hải Phòng… Quy mô kinh tế của từng vùng (GRDP) được mở rộng, đóng góp vào kết quả chung của cả nước. GDP bình quân cả nước năm 2023 là 101.90 triệu đồng/năm, trong đó: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là 68,05 triệu đồng/năm; vùng Đồng bằng sông Hồng là 131,85 triệu đồng/năm; vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ là 75,62 triệu đồng/năm; Đông Nam Bộ là 165,96 triệu đồng/năm; vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 72,32 triệu đồng/năm; vùng Tây Nguyên là 67,58 triệu đồng/năm. Cơ cấu kinh tế các vùng tiếp tục chuyển dịch tích cực, đúng định hướng, là nền tảng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước. Năng suất lao động các vùng đều tăng, đóng góp vào tốc độ tăng năng suất lao động của cả nước là 3.65%. Tổng thu ngân sách địa phương có xu hướng tăng dần, vượt dự toán được giao; tỷ lệ tự cân đối ngân sách trong một số vùng tăng lên.

(vii) Phần lớn các nhiệm vụ liên kết vùng đã được các địa phương quan tâm, chủ động tổ chức triển khai. Một số thỏa thuận, chương trình hợp tác, xác định trách nhiệm của từng địa phương được ký kết và triển khai... Một số vùng kinh tế trọng điểm, các tuyến hành lang kinh tế, hành lang công nghiệp và hành lang kinh tế ven biển được đầu tư phát triển; liên kết giữa một số đô thị lớn với các địa phương tiếp tục được đẩy mạnh; một số cực tăng trưởng, tiểu vùng, khu công nghiệp được quan tâm đầu tư. Kết cấu hạ tầng nội vùng và liên vùng từng bước được cải thiện, một số công trình dự án hạ tầng kinh tế - xã hội có tính kết nối vùng đươc đầu tư, xây dựng, đưa vào sử dụng góp phần thúc đẩy sự gắn kết giữa các địa phương trong vùng và liên vùng. Một số trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo được từng bước đầu tư.

(v) Bản sắc văn hóa các dân tộc, giá trị lịch sử, truyền thống của các vùng, các địa phương được giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Một số cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được thực hiện nhằm nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 được tích cực triển khai với nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và bền vững, phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số.

MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ

Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, song công tác liên kết vùng và phát triển kinh tế vùng cũng đối mặt với nhiều hạn chế:

Một là, tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng còn chậm so với mục tiêu đã đề ra. Chất lượng tăng trưởng còn phụ thuộc nhiều vào vốn, lao động và tài nguyên. Tương quan trình độ phát triển giữa các vùng còn chênh lệch lớn. Thiếu giải pháp để tính toán, chia sẻ lợi ích để khai thác tiềm năng, lợi thế vùng. Chậm kết nối giữa quy hoạch - kế hoạch - đầu tư.

Hai là, quy hoạch vùng và phần lớn quy hoạch các địa phương chậm được ban hành. Quy hoạch vùng phê duyệt sau quy hoạch các địa phương nên tính định hướng chưa cao. Hạ tầng giao thông phần lớn các vùng chưa đồng bộ, tính kết nối các loại hình giao thông, vận tải chưa cao; hệ thống đô thị phát triển chưa hợp lý. Một số hạ tầng kinh tế- xã hội khác đầu tư chậm; thu hút đầu tư dàn trải, trùng lắp; thu hút đầu tư thiếu sự phân công, chuyên môn hóa. Quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường rừng, biển và hải đảo gặp nhiều khó khăn, hệ thống cơ sở dữ liệu chưa đáp ứng được yêu cầu; quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2030 còn nhiều bất cập.

Ba là, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng vùng còn hạn chế. Phần lớn các liên kết, hợp tác trong các vùng còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp; phát triển theo cơ cấu kinh tế “khép kín” của địa phương còn phổ biến; huy động nguồn lực để đầu tư cho các dự án liên kết vùng gặp khó khăn. Tiềm năng của vùng được các địa phương khai thác đơn lẻ; thiếu tính toán cho lợi ích chung toàn vùng. Vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng nhằm thúc đẩy liên kết vùng hầu hết còn khiêm tốn, mờ nhạt.

Bốn là, phát triển văn hoá - xã hội một số vùng, địa phương có mặt còn hạn chế; hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao chưa đồng bộ, thiếu nguồn lực.

Qua nghiên cứu của tác giả, nguyên nhân của những hạn chế trên xuất phát từ:

- Xây dựng và triển khai chương trình hành động, kế hoạch cụ thể hóa nhiệm vụ liên kết, phát triển vùng có lúc còn cứng nhắc, thiếu sáng tạo, nhất là đối với các vấn đề mới phát sinh.

- Hệ thống pháp luật còn có những hạn chế và chưa thống nhất; thể chế điều phối, liên kết vùng còn nhiều bất cập, quy hoạch vùng chậm được ban hành; quy hoạch từng địa phương trong vùng thiếu sự liên thông, chưa thật đồng bộ.

- Nguồn lực bố trí cho một số chương trình đề án, dự án nhằm thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp liên kết vùng chậm được triển khai. Đầu tư từ ngân sách Trung ương cho phát triển vùng, liên vùng còn khó khăn; phương thức đối tác công - tư (PPP) chưa được vận dụng hiệu quả.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Qua phân tích thực trạng, tác giả đề xuất giải pháp phát triển, liên kết vùng ở Việt Nam đến năm 2030:

Tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh nhằm tạo ra không gian và động lực phát triển mới.

Nghiêm túc thực hiện các quy hoạch vùng đã ban hành, đảm bảo sự định hướng, dẫn dắt của quy hoach tổng thể quốc gia. Nhanh chóng chuyển dịch từ tư duy quản lý vùng sang quản trị vùng thông qua hệ tiêu chí có tính đặc trưng, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh và có tính bắt buộc với các địa phương trong vùng. Bố trí đủ nguồn lực để thực hiện các quy hoạch ngành, quy hoạch tỉnh làm cơ sở để thực hiện quy hoạch vùng. Phát huy vai trò của Hội đồng điều phối vùng trong thực hiện các đột phá của vùng; phát triển các ngành, lĩnh vực, các trung tâm, hành lang kinh tế theo tiềm năng, lợi thế; điều phối nguồn lực, sắp xếp thứ tự ưu tiên để triển khai các đề án, dự án và giám sát triển khai các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch tỉnh nhằm thực hiện mục tiêu phát triển vùng.

Đối với từng vùng cụ thể:

- Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ: Phát triển vùng theo hướng xanh, bền vững và toàn diện, trên cơ sở tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với vùng Đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản; kinh tế cửa khẩu, du lịch; bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn; đẩy mạnh trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản; bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái và an ninh nguồn nước.

- Vùng Đồng bằng sông Hồng: Phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, đô thị thông minh, có tính kết nối cao. Xây dựng Thủ đô Hà Nội "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại", trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực.

- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung bộ: Phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn của cả nước với các khu kinh tế ven biển và hệ thống đô thị ven biển đạt chuẩn quốc gia và khu vực; là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào.

- Vùng Tây Nguyên: Bảo vệ rừng gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước. Nâng cao hiệu quả phát triển cây công nghiệp. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, năng lượng tái tạo; phát triển bền vững công nghiệp khai thác bôxit, chế biến alumin, sản xuất nhôm. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.

- Vùng Đông Nam Bộ: Phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh cao trong khu vực. Đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Phát triển nhanh hệ thống đô thị thông minh và hiện đại. TP. Hồ Chí Minh là thành phố văn minh, hiện đại, năng động sáng tạo; trung tâm tài chính quốc tế, phát triển ngang tầm các thành phố lớn trong khu vực châu Á.

- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Phát triển toàn diện theo hướng sinh thái, văn minh, bền vững, mang bản sắc sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp xanh, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao. Phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, các hành lang kinh tế, các đô thị động lực, tập trung các dịch vụ và công nghiệp đa dạng, hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển mạnh kinh tế biển, kinh tế du lịch; tăng cường kết nối nội vùng, liên vùng, trong nước và quốc tế; chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Tăng cường liên kết hạ tầng giao thông, năng lượng; phát huy vai trò của các vùng động lực quốc gia, các hành lang kinh tế, các đô thị lớn, các trung tâm kinh tế

Huy động mọi nguồn lực xã hội để đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng, liên vùng theo hướng đồng bộ, hiện đại, kết nối hiệu quả nội vùng, liên vùng và quốc tế; đa dạng hóa phương thức vận tải. Tập trung đầu tư các công trình động lực, có tính lan tỏa, kết nối các phương thức. Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo lợi thế vùng và hạ tầng phòng chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu; hạ tầng số; hạ tầng bảo vệ môi trường.

Tiếp tục phát triển 4 vùng động lực quốc gia gồm: Vùng động lực phía Bắc gắn với thủ đô Hà Nội và tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Vùng động lực phía Nam gắn với Thành phố Hồ Chí Minh; Vùng động lực miền Trung gắn với TP. Đà Nẵng; Vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long gắn với TP. Cần Thơ.

Tiếp tục nghiên cứu để hình thành các cụm liên kết ngành ở phạm vi liên tỉnh, liên vùng gắn với các trung tâm kinh tế gắn với tăng cường phân cấp. Bố trí nguồn lực để phát triển các trung tâm kinh tế, các địa phương trọng điểm để trở thành động lực phát triển các vùng. Phát triển hệ thống đô thị các vùng theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, bảo đảm đồng bộ, thống nhất để hình thành các chuỗi đô thị vùng; đẩy nhanh tỷ lệ đô thị hóa để trở thành các đầu mối kết nối trong nước, quốc tế. Tập trung phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhất là nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản; các trung tâm du lịch, dịch vụ logistics; hình thành các cụm liên ngành về kinh tế biển, nhất là về phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.

Phát triển mô hình kinh tế xanh, tuần hoàn; phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo phù hợp với đặc trưng từng vùng

Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển sản phẩm có lợi thế từng vùng; thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, ít phát thải, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, nước, biển, đảo và rừng. Bảo tồn, gìn giữ, phục hồi các hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên; giữ ổn định độ che phủ rừng, ngăn chặn suy giảm chất lượng rừng. Đẩy mạnh điều tra cơ bản, đánh giá các nguồn tài nguyên, đất đai; bảo đảm an ninh nguồn nước, có biện pháp đủ mạnh để cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường nước. Hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát, dự báo, cảnh báo môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Kiểm soát chặt chẽ, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu, cụm công nghiệp, làng nghề, khu dân cư.

Thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từng vùng theo tiềm năng, lợi thế để trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế vùng; ưu tiên, mũi nhọn, công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ nguồn, công nghệ mới và chuyển đổi số. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đẩy mạnh chuyển đổi số; thúc đẩy đổi mới sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng. Ưu tiên phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ để trở thành trung tâm khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hàng đầu của cả nước

Hoàn thiện thể chế liên kết vùng; phát huy vai trò, hiệu quả của các hội đồng điều phối vùng; tổ chức, điều phối phát triển vùng trên cơ sở quy hoạch vùng

Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức để xây dựng cơ chế, chính sách phát triển vùng đảm bảo mang tính đột phá để liên kết vùng trở thành quan điểm chỉ đạo, dẫn dắt sự phát triển các địa phương và toàn vùng. Khẩn trương thể chế hóa một số nhiệm vụ, giải pháp về liên kết, phát triển vùng, đặc biệt là cơ chế, chính sách đặc thù cho từng vùng, phát triển các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng….

Bổ sung, điều chỉnh thể chế điều phối đủ mạnh với quyết tâm chính trị cao hơn để bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng, tập trung vào cơ chế, chính sách đặc thù, chính sách vượt trội, cơ chế thử nghiệm chính sách mới cho từng vùng, nhất là các cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính cho phép các địa phương huy động, phân bổ và chia sẻ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu chung của vùng.

Sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật nâng cao vai trò, trách nhiệm và phân cấp mạnh hơn trong huy động, bố trí nguồn lực cho các hội đồng điều phối vùng, nhất là trong tổ chức thực hiện các quy hoạch vùng. Xây dựng, hoàn thiện và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu chung về các tỉnh, thành phố thuộc vùng phục vụ xây dựng và điều phối các hoạt động liên kết vùng.

Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách về ngân sách, đầu tư để cho phép các địa phương được sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho các dự án vùng, liên vùng. Ban hành cơ chế, chính sách đặc thù để phát huy thế mạnh của các tiểu vùng, các mô hình mới gắn với các giải pháp huy động nguồn lực ngoài ngân sách; về đầu tư, tín dụng, thuế, đất đai, nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ…

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

3. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6/10/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

4. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

5. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 3/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

6. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Hà Nội.

Ngày nhận bài: 18/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 10/10/2025; Ngày duyệt đăng: 22/10/2025