Trương Thị Thùy Dung

Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

Nguyễn Văn Sáng

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Trong bối cảnh thế giới ngày càng nhiều biến động bởi các cú sốc địa chính trị, căng thẳng thương mại và sự thay đổi chính sách đột ngột từ các nền kinh tế lớn, việc hiểu rõ các yếu tố nội tại giúp một quốc gia duy trì sự ổn định ngày càng trở nên cấp thiết. Qua tổng hợp lý thuyết và kết quả nghiên cứu thực nghiệm, nhóm tác giả nhận thấy, chất lượng thể chế đóng vai trò là một “mỏ neo”, giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của cả bất ổn định trong nước và các cú sốc từ bên ngoài; nâng cao chất lượng thể chế không chỉ là một mục tiêu quản trị mà còn tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế và đảm bảo sự phát triển bền vững trong một thế giới bất định.

Từ khoá: Chất lượng thể chế kinh tế, bất ổn định chính sách kinh tế

Summary

In the context of growing global volatility caused by geopolitical shocks, trade tensions, and sudden policy shifts from major economies, understanding the internal factors that enable a country to maintain stability has become increasingly essential. By synthesizing theoretical perspectives and empirical evidence, the authors find that institutional quality serves as an “anchor,” helping to mitigate the adverse impacts of both domestic instability and external shocks. Improving institutional quality is therefore not only a governance objective but also a key factor in enhancing economic resilience and ensuring sustainable development in an uncertain world.

Keywords: Economic institutional quality, economic policy instability

GIỚI THIỆU

Thế kỷ XXI đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể của bất ổn định chính sách kinh tế trên toàn cầu. Các sự kiện như chiến tranh thương mại, đại dịch COVID-19, xung đột địa chính trị và những thay đổi đột ngột trong chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn đã tạo ra một môi trường kinh doanh và đầu tư đầy rủi ro (Baker và cộng sự, 2013).

Trong bối cảnh đó, câu hỏi cốt lõi được đặt ra là: Tại sao một số quốc gia lại có khả năng chống chịu tốt hơn trước những bất ổn định này? Một trong những câu trả lời quan trọng nhất nằm ở chất lượng thể chế. Các nghiên cứu gần đây ngày càng nhấn mạnh vai trò của thể chế như một yếu tố nền tảng quyết định sự ổn định kinh tế vĩ mô: các nước có chỉ số chất lượng thể chế cao hơn có mức độ bất ổn định chính sách kinh tế thấp hơn đáng kể (Ahir, 2022; Ahir, Bloom và Furceri, 2025). Mối quan hệ này càng trở nên rõ rệt ở các nền kinh tế mới nổi, nơi nền tảng thể chế còn hạn chế, khiến các quốc gia này dễ bị tổn thương hơn trước các cú sốc trong và ngoài nước.

Dựa trên cơ sở đó, nghiên cứu này tập trung đánh giá tác động của chất lượng thể chế đối với bất ổn định chính sách kinh tế ở các quốc gia, qua đó cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm khẳng định vai trò của thể chế trong việc giảm thiểu rủi ro và nâng cao tính ổn định của nền kinh tế.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Thể chế

Theo quan điểm của North (1990), thể chế gồm 3 bộ phận cấu thành: (i) Những chuẩn mực phi chính thức (truyền thống, tập quán, dư luận xã hội) được thừa nhận rộng rãi, được hình thành với tư cách là kết quả quan hệ tương tác giữa nhiều người đang theo đuổi những lợi ích riêng. Những chuẩn mực này có xu thế thay đổi dần dần theo tiến trình vận động và phát triển của xã hội; (ii) Những quy tắc chính thức (hiến pháp, luật, phán quyết của toà án, xử lý hành chính) được nhà nước thiết lập một cách có ý thức, có thể thay đổi nhanh chóng, đặc biệt trong các thời kỳ diễn ra những biến đổi có tính cách mạng; (iii) Những cơ chế cưỡng chế đảm bảo tuân thủ quy tắc.

Lin và Nugent (1995) cho rằng, thể chế là hệ thống các quy tắc hành xử do con người sáng tạo ra để quản lý và định hình những tương tác giữa con người với nhau, qua đó giúp họ hình thành những kỳ vọng về những điều mà người khác sẽ làm.

Bất ổn định chính sách kinh tế

Theo Gulen và cộng sự (2015), bất ổn định chính sách kinh tế là sự không chắc chắn của chính sách kinh tế đề cập đến việc những người tham gia thị trường không thể dự đoán chính xác liệu chính phủ sẽ thay đổi chính sách kinh tế hay đưa ra các chính sách mới.

Ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tính ổn định chính sách kinh tế

Theo North (1990), các thể chế làm giảm sự bất ổn và tạo ra một cấu trúc ổn định cho trao đổi. Do đó, cải thiện các thể chế kinh tế làm tăng tăng trưởng kinh tế bằng cách giảm chi phí giao dịch và sản xuất và tăng lợi nhuận từ thương mại.

Các thể chế làm giảm sự không chắc chắn phát sinh từ thông tin không đầy đủ thông qua 3 kênh chính: chúng làm giảm sự bất đối xứng thông tin bằng cách truyền tải thông tin về điều kiện thị trường, hàng hóa và người tham gia; chúng làm giảm rủi ro bằng cách xác định và thực thi quyền sở hữu và hợp đồng; hạn chế hành động của các đảng phái chính trị và các nhóm lợi ích đặc biệt (Bonnal và Yaya, 2015).

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài báo sử dụng dữ liệu thứ cấp từ 2 nguồn chính: World Bank Open Data và trang web www.policyuncertainty.com. Biến phụ thuộc là chỉ số bất ổn định chính sách kinh tế (EPU) được lấy theo phương pháp đo lường của Baker, Bloom và Davis (2016). Nhóm tác giả sử dụng dữ liệu EPU hàng tháng và lấy giá trị của tháng 12 hàng năm để đại diện cho cả năm đó, trong giai đoạn 2009-2021. Các biến độc lập bao gồm: Độ mở thương mại (TO), được đo bằng tổng giá trị xuất nhập khẩu chia cho GDP; Lạm phát (INF), đo bằng chỉ số giá tiêu dùng; Chất lượng thể chế (IQ), được đại diện bởi 2 chỉ số là Kiểm soát tham nhũng (IQCC) và Hiệu quả của chính quyền (IQGE) từ bộ dữ liệu WGI. Dữ liệu cho các biến độc lập được thu thập trong giai đoạn 2010-2021. Bộ dữ liệu cuối cùng là một dữ liệu bảng không cân bằng (unbalanced panel data) gồm 228 quan sát từ 19 quốc gia, được thống kê mô tả tại Bảng 1. Nghiên cứu này sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế.

Bảng 1: Thống kê mô tả các biến

Biến

Số quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

EPU

228

176.3078

99.3891

15.2952

597.9362

TO

228

2.1202

6.9219

-7.7723

36.2361

INF

228

2.4549

2.3925

-1.7359

15.5344

IQCC

228

0.8180

1.0198

-1.0992

2.2771

IQGE

228

0.9697

0.7589

-0.6000

2.2800

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp

Để ước lượng mô hình, nhóm tác giả sử dụng phương pháp Moment tổng quát (GMM) cho dữ liệu bảng động. Phương pháp này đặc biệt phù hợp vì mô hình nghiên cứu có chứa biến trễ của biến phụ thuộc (EPUit-1) làm biến giải thích, gây ra vấn đề nội sinh (dynamic panel bias). GMM, cụ thể là ước lượng Difference GMM (DGMM), giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng các giá trị trễ của các biến làm biến công cụ. Hơn nữa, với đặc điểm của bộ dữ liệu (số quốc gia N = 19 lớn hơn số năm T = 12), GMM là một lựa chọn hiệu quả và mạnh mẽ.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kiểm định tự tương quan Arellano-Bond cho thấy có tự tương quan bậc nhất AR(1) (p-value = 0.344, không có ý nghĩa thống kê, nhưng đây là điều được kỳ vọng) và không có tự tương quan bậc hai AR(2) (p-value = 0.363 > 0.05), cho thấy mô hình được xác định đúng. Kiểm định Hansen về tính hợp lệ của các biến công cụ có p-value = 0.349 > 0.05, chứng tỏ các biến công cụ được sử dụng là hợp lệ.

Bảng 2: Kết quả ước lượng

Coef.

Std. Err.

z

P>

L1.EPU

-0.5153

0.1551

-3.32

0.001

TO

-13.6870

18.5861

-0.74

0.461

INF

-21.7496

10.2794

-2.12

0.034

IQCC

850.0404

138.3876

6.14

0.000

IQGE

-939.3682

213.7659

-4.39

0.000

TO*IQGE

36.4214

18.3504

1.98

0.047

_cons

429.8117

113.0175

3.80

0.000

Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ Stata

Từ kết quả Bảng 2, mô hình hồi quy ước lượng có dạng như sau:

Theo đó, đối với Chất lượng thể chế (thể hiện qua IQGE và IQCC), biến Hiệu quả của chính quyền (IQGE) có hệ số âm (-939.3682) và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này cho thấy một tác động rất mạnh mẽ: khi chỉ số hiệu quả của chính quyền tăng lên 1 điểm, chỉ số bất ổn định chính sách kinh tế sẽ giảm trung bình khoảng 939 điểm, với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này là một bằng chứng thực nghiệm vững chắc cho thấy khi chính quyền hoạt động hiệu quả, cung cấp dịch vụ công chất lượng, xây dựng chính sách một cách minh bạch và đáng tin cậy, thì sự bất ổn trong môi trường kinh tế sẽ giảm đi đáng kể. Điều này củng cố niềm tin của nhà đầu tư và doanh nghiệp vào sự ổn định của các chính sách vĩ mô.

Tuy nhiên, một kết quả đáng ngạc nhiên là biến Kiểm soát tham nhũng (IQCC) lại có hệ số dương (850.0404) và có ý nghĩa thống kê. Điều này trái với kỳ vọng thông thường. Điều này có thể hiểu là các nỗ lực chống tham nhũng mặc dù tốt cho dài hạn, song có thể gây ra sự không chắc chắn trong ngắn hạn. Các cuộc điều tra, thay đổi nhân sự và sự xáo trộn trong bộ máy hành chính có thể tạm thời làm gián đoạn việc ra quyết định và thực thi chính sách, từ đó làm tăng bất ổn định chính sách kinh tế.

Độ mở thương mại (TO) có hệ số âm (-13.6870) nhưng không có ý nghĩa thống kê (p-value = 0.461). Điều này cho thấy tác động trực tiếp của việc mở cửa thương mại lên bất ổn định chính sách kinh tế là không rõ ràng trong mẫu nghiên cứu này. Tuy nhiên, vai trò thực sự của độ mở thương mại lại được thể hiện qua biến tương tác TO*IQGE. Đây là một trong những phát hiện quan trọng nhất của nghiên cứu. Cụ thể, biến tương tác giữa độ mở thương mại và hiệu quả của chính quyền có hệ số dương (36.4214) và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Điều này cho thấy độ mở thương mại có vai trò điều tiết mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và bất ổn định chính sách kinh tế .

Để hiểu rõ hơn, chúng ta xem xét tác động biên của IQGE lên EPU qua công thức:

Phương trình này cho thấy tác động tiêu cực (làm giảm bất ổn) của thể chế tốt (-939.3682) sẽ bị suy yếu khi mức độ mở cửa thương mại tăng lên. Nói cách khác, trong một nền kinh tế càng hội nhập sâu rộng, vai trò “mỏ neo” của thể chế trong việc chống lại sự bất ổn vẫn rất quan trọng, nhưng hiệu quả của nó có phần giảm đi. Điều này có thể được giải thích là do các nền kinh tế mở cửa hơn sẽ phải đối mặt với nhiều cú sốc từ bên ngoài hơn (biến động tỷ giá, chính sách thương mại của các đối tác, khủng hoảng kinh tế toàn cầu) và những cú sốc này có thể lấn át một phần tác động ổn định của thể chế trong nước. Phát hiện này nhấn mạnh rằng, việc mở cửa kinh tế cần phải đi đôi với việc liên tục củng cố và nâng cao chất lượng thể chế để xây dựng một bộ đệm đủ mạnh nhằm hấp thụ các cú sốc ngoại sinh.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, chất lượng thể chế là một yếu tố quyết định cơ bản đối với mức độ ổn định chính sách kinh tế của một quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu sâu rộng. Đây không phải là mối quan hệ một chiều đơn giản, nó phức tạp và được điều tiết bởi mức độ mở cửa của nền kinh tế.

Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách sau:

(i) Đầu tư vào thể chế chính là đầu tư vào ổn định kinh tế vĩ mô. Các nỗ lực cải cách thể chế - bao gồm tăng cường pháp quyền, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch của bộ máy nhà nước - không chỉ là mục tiêu tự thân hướng tới nền quản trị tốt, mà còn giúp tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên trong và bên ngoài, đồng thời giảm thiểu mức độ bất định chính sách kinh tế, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững.

(ii) Ưu tiên các cải cách thể chế trọng tâm: Trong bối cảnh nguồn lực có hạn, các nhà hoạch định chính sách nên tập trung vào những lĩnh vực có tác động lớn nhất đến việc giảm bất ổn định chính sách kinh tế, bao gồm củng cố pháp quyền và kiểm soát tham nhũng. Đây là nền tảng để xây dựng niềm tin của thị trường.

(iii) Quản lý hội nhập một cách chiến lược: Hội nhập là tất yếu, nhưng cần được quản lý một cách khôn ngoan. Song song với việc mở cửa thị trường, cần phải xây dựng một bộ đệm thể chế vững chắc trong nước để hấp thụ các cú sốc bên ngoài. Việc chỉ mở cửa mà không củng cố năng lực thể chế nội tại có thể khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn.

Tài liệu tham khảo:

1. Ahir. (2022). The World Uncertainty Index.

2. Ahir, H., Bloom, N., & Furceri, D. (2025). Uncertainty about Uncertainty.

3. Baker, S. R., Bloom, N., Davis, S. J., Hassett, K., Ip, G., Makin, J., Pfeifer, J., Saporta, I., Schulhofer-Wohl, S., Shapiro, J., & Sims, E. (2013). Measuring Economic Policy Uncertainty Sloan Foundation and the Initiative on Global Markets and the Stigler Center at Chicago for financial support. www.policyuncertainty.com

4. Bonnal, M., & Yaya, M. E. (2015). Political institutions, trade openness, and economic growth: new evidence. Emerging Markets Finance and Trade, 51(6), 1276-1291. https://doi.org/10.1080/1540496X.2015.1011514

5. Gulen et al. (2015). Policy Uncertainty and Corporate Investment. http://ssrn.com/abstract=2188090Electroniccopyavailableat:https://ssrn.com/abstract=2188090Electroniccopyavailableat:http://ssrn.com/

6. Lin, Justin & Nugent, Jeffrey B. (1995). Institutions and economic development, Handbook of Development Economics, in: Hollis Chenery & T.N. Srinivasan (ed.), Handbook of Development Economics, Elsevier.

North, D. C. (1990). Institutions, Institutional Change and Economic Performance (p. 33). Cambridge: Cambridge University Press.

7. Ogbonna, O. E., Ogbuabor, J. E., Manasseh, C. O., & Ekeocha, D. O. (2022). Global uncertainty, economic governance institutions and foreign direct investment inflow in Africa. Economic Change and Restructuring, 55(4), 2111-2136. https://doi.org/10.1007/s10644-021-09378-w

8. Pastor Pietro Veronesi, L., Bloom, N., Chernov, M., DeLong, B., Durnev, A., Gomes, F., Kondor, P., Trebbi, F., Wilson, M., Pastor, L., & Veronesi, P. (2012). European Finance As-sociation meetings. Madrid. http://www.nber.org/papers/w17464

9. Sheikh, M. A., Malik, M. A., & Masood, R. Z. (2021). Uncertainty, trade and growth: an Indian experience. The Indian Economic Journal, 69(4), 614-629. https://doi.org/10.1177/00194662211035261

Ngày nhận bài: 1/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 8/10/2025; Ngày duyệt đăng: 20/10/2025