Vũ Hiền Thương

Trường Đại học Công nghệ Đông Á

Email: thuongvh@eaut.edu.vn

Tóm tắt

Thương mại điện tử tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong thời gian vừa qua, trở thành một kênh phân phối hiện đại và hiệu quả trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, thương mại điện tử bùng nổ cũng đặt ra nhiều thách thức về quản lý. Nghiên cứu này nhằm phân tích sự cần thiết ban hành Luật Thương mại điện tử tại Việt Nam, điểm qua thực trạng phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2010 đến nay, đồng thời đánh giá những điểm mới của Dự thảo Luật Thương mại điện tử. Trên cơ sở so sánh Dự thảo luật với các quy định pháp lý hiện hành (như Nghị định số 52/2013, Nghị định số 85/2021, Luật Giao dịch điện tử...), tác giả chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện dự thảo Luật Thương mại điện tử phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế quốc tế.

Từ khóa: Thương mại điện tử, Dự thảo luật Thương mại điện tử

Summary

E-commerce in Viet Nam has experienced remarkable growth in recent years, emerging as a modern and efficient distribution channel within the digital economy. However, the rapid expansion of e-commerce has also posed significant challenges for regulatory management. This study aims to analyze the necessity of promulgating an E-commerce Law in Viet Nam, review the development of e-commerce from 2010 to the present, and evaluate the new provisions contained in the Draft E-commerce Law. By comparing the draft law with existing legal instruments, such as Decree No. 52/2013, Decree No. 85/2021, and the Law on Electronic Transactions, the author identifies existing limitations and proposes several recommendations to refine the draft law, ensuring its alignment with Viet Nam’s socio-economic context and international developments.

Keywords: E-commerce, Draft E-commerce Law

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua, trở thành một kênh phân phối hiện đại và hiệu quả trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, TMĐT bùng nổ cũng đặt ra nhiều thách thức về quản lý như xuất hiện các mô hình kinh doanh số mới, giao dịch xuyên biên giới gia tăng và các vấn đề về hàng giả, gian lận trực tuyến, bảo vệ người tiêu dùng ngày càng phức tạp. Tại Việt Nam, khuôn khổ pháp lý điều chỉnh TMĐT trước năm 2025 chủ yếu dựa vào các văn bản dưới luật như: Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về TMĐT và Nghị định số 85/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP . Tuy nhiên, hệ thống quy định này được đánh giá là chưa đầy đủ và thiếu tính thống nhất, chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh và tính đa dạng của TMĐT trên thực tế. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng Luật TMĐT là một yêu cầu cấp thiết đặt ra. Dự thảo Luật TMĐT dự kiến thông qua vào cuối năm 2025 sẽ là bước ngoặt nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo vệ tốt hơn quyền lợi các bên tham gia và thúc đẩy TMĐT phát triển bền vững trong kỷ nguyên số. Vì vậy, việc điểm qua thực trạng phát triển TMĐT giai đoạn 2010 đến nay; phân tích sự cần thiết ban hành Luật TMĐT tại Việt Nam; đồng thời đánh giá những điểm mới của Dự thảo Luật TMĐT, đóng vai trò quan trọng nhằm hoàn thiện Luật TMĐT phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế quốc tế.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY

Giai đoạn 2010-2015

TMĐT định hình và tăng trưởng ban đầu. Sau giai đoạn hình thành (1997-2005) với dấu mốc Luật Giao dịch điện tử 2005 tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch điện tử, TMĐT Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng nhanh từ những năm 2010. Số người dùng Internet tăng mạnh, đạt trên 50% dân số vào năm 2015. Cùng với đó, số người mua sắm trực tuyến tăng dần khi các website TMĐT nội địa bắt đầu phát triển (như Lazada, Tiki thành lập năm 2010) và các doanh nghiệp bán lẻ truyền thống cũng thử nghiệm kênh online. Theo thống kê, doanh thu TMĐT Việt Nam năm 2015 đạt khoảng 4-5 tỷ USD, tuy còn khá nhỏ so với tổng mức bán lẻ nhưng đã tăng ấn tượng (trên 20%/năm) so với đầu thập kỷ. Giai đoạn này, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1073/QĐ-TTg ngày 12/7/2010 phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2011-2015, định hướng rõ mục tiêu và phân công trách nhiệm cho các địa phương. Đặc biệt, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về TMĐT ra đời đánh dấu bước ngoặt khi lần đầu tiên quy định đầy đủ về website, sàn giao dịch, trách nhiệm người bán, bảo vệ người tiêu dùng và hợp đồng điện tử. Tiếp đó, Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 5/12/2014 của Bộ Công Thương quy định về quản lý website thương mại điện tử và Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 quy định về quản lý hoạt động TMĐT qua ứng dụng trên thiết bị di động được ban hành để hướng dẫn chi tiết việc thông báo, đăng ký website TMĐT và quản lý ứng dụng di động. Nhờ vậy, hệ thống pháp lý về TMĐT Việt Nam dần được hoàn thiện, hỗ trợ thị trường vận hành ổn định.

Giai đoạn 2016-2019

Từ 2016, TMĐT Việt Nam bước vào cao trào tăng trưởng 2 con số mỗi năm, trung bình trên 20%. Thị trường sôi động với sự tham gia của nhiều sàn TMĐT lớn; các dịch vụ trung gian như ví điện tử, giao vận, tiếp thị liên kết cũng phát triển hỗ trợ hệ sinh thái TMĐT. Người tiêu dùng Việt Nam ngày càng quen thuộc với mua sắm online, không chỉ ở đô thị mà lan dần đến các tỉnh. Tuy nhiên, khuôn khổ pháp lý vẫn tiếp tục dựa vào Nghị định số 52/2013/NĐ-CP và các thông tư liên quan. Tuy nhiên, trước sự thay đổi nhanh của công nghệ và mô hình kinh doanh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 phê duyệt phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT quốc gia giai đoạn 2021-2025, đặt nền tảng cho giai đoạn chuyển đổi số toàn diện. Kế hoạch này định hướng TMĐT gắn với mục tiêu tăng tỷ lệ dân số mua sắm trực tuyến, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt và thúc đẩy TMĐT xuyên biên giới.

Giai đoạn 2020 đến nay

Đại dịch COVID-19 (2020-2021) đã tạo cú hích mạnh mẽ cho TMĐT tại Việt Nam cũng như toàn cầu. Giãn cách xã hội buộc người tiêu dùng chuyển từ mua sắm truyền thống sang trực tuyến, thanh toán không tiền mặt; đồng thời nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bắt đầu chuyển đổi số để bán hàng online. Việt Nam đã vươn lên Top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng TMĐT nhanh nhất thế giới. Đáng chú ý, thói quen người tiêu dùng đã thay đổi căn bản: 75% dân số sử dụng internet thì có tới 74,8% trong số đó mua hàng trực tuyến; hầu hết người mua dùng điện thoại thông minh để đặt hàng (91%) (Phan Anh, 2022). Cùng với đó, dịch vụ giao đồ ăn, đi chợ online, dịch vụ gọi xe công nghệ... bùng nổ đã xóa nhòa ranh giới giữa TMĐT hàng hóa và dịch vụ. Từ 2021 đến nay, Nhà nước đã điều chỉnh mạnh mẽ khung pháp lý để phù hợp với thực tiễn. Nghị định số 85/2021/NĐ-CP là bước tiến quan trọng, quy định rõ trách nhiệm của sàn TMĐT trong việc xác thực người bán, phối hợp thu thuế, kiểm soát hàng hóa vi phạm và mở rộng điều chỉnh đối với thương nhân nước ngoài.

Hướng tới giai đoạn 2026-2030

Bộ Công Thương đang xây dựng Kế hoạch phát triển TMĐT quốc gia mới, với trọng tâm là TMĐT xanh, dữ liệu và logistics thông minh. Dự kiến, khung pháp lý sẽ được “nâng cấp” lên cấp độ luật thông qua Luật TMĐT, cùng các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành. Sự kế thừa và hoàn thiện này cho thấy tiến trình phát triển pháp luật TMĐT Việt Nam đi từ thử nghiệm - chuẩn hóa - quản lý - đến luật hóa, phản ánh đúng quy luật phát triển của một lĩnh vực kinh tế trọng yếu trong thời đại số.

SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

Thứ nhất, TMĐT tuy đem lại những thành tựu lớn về kinh tế nhưng cũng kéo theo nhiều vấn đề về quản lý mà khung pháp luật hiện hành chưa giải quyết được. Thực tế quản lý cho thấy các chính sách, quy định về TMĐT còn thiếu tính thống nhất và toàn diện. Nhiều mô hình TMĐT mới xuất hiện (như sàn giao dịch trên mạng xã hội, kinh doanh trên nền tảng đa dịch vụ, bán hàng livestream, tiếp thị liên kết...) chưa có quy định điều chỉnh cụ thể. Vấn nạn hàng giả, hàng cấm, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ trên các sàn TMĐT vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả; hoạt động TMĐT xuyên biên giới phát triển nhanh, nhưng thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ (Phương Liên, 2025). Trong khi đó, các quy định hiện hành chưa có những quy định liên quan khiến việc quản lý gặp khó khăn và tiềm ẩn rủi ro cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Do vậy, việc xây dựng luật để khắc phục, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho toàn bộ lĩnh vực TMĐT là cần thiết.

Thứ hai, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và doanh nghiệp đòi hỏi khuôn khổ pháp lý cao hơn. Môi trường TMĐT phát triển quá nhanh và phức tạp tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người tiêu dùng, như: lừa đảo trực tuyến, bán hàng kém chất lượng, xâm phạm dữ liệu cá nhân... Việc luật hóa các quy định về TMĐT sẽ giúp nâng cao hiệu lực bảo vệ quyền lợi người mua hàng trực tuyến thông qua các chế tài rõ ràng hơn. Đồng thời, Luật TMĐT sẽ đặt ra nghĩa vụ và trách nhiệm cho mọi chủ thể kinh doanh (kể cả nhà bán hàng nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam) và qua đó bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng theo đúng tinh thần Hiến pháp (Song Hà, 2025). Điều này cũng sẽ tạo được niềm tin và thúc đẩy doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực TMĐT.

Thứ ba, phù hợp xu thế quốc tế và cam kết hội nhập. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước đã xây dựng luật riêng về TMĐT hoặc luật về kinh tế số nhằm quản lý toàn diện lĩnh vực này. Việc Việt Nam ban hành Luật TMĐT là cần thiết để theo kịp xu thế chung, nội luật hóa các cam kết quốc tế liên quan (trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới) và tạo động lực phát triển kinh tế số (Phương Liên, 2025). Một luật với phạm vi điều chỉnh đầy đủ cũng sẽ giúp định vị rõ TMĐT trong hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo với các luật khác, qua đó tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và vừa thúc đẩy thương mại số phát triển, vừa kiểm soát rủi ro.

NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG DỰ THẢO LUẬT THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ (NĂM 2025)

Dự thảo Luật TMĐT (bản ngày 12/8/2025) được xây dựng với bố cục gồm 8 Chương, 50 Điều, nhằm điều chỉnh toàn diện các khía cạnh của hoạt động TMĐT. So với khung pháp lý hiện hành (các nghị định, thông tư), dự thảo Luật có nhiều điểm mới quan trọng cả về phạm vi điều chỉnh lẫn nội dung, cụ thể như sau:

Một là, mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Dự thảo quy định rõ các loại hình chủ thể tham gia hoạt động TMĐT cùng trách nhiệm tương ứng của họ. Lần đầu tiên, các khái niệm “nền tảng số tích hợp đa dịch vụ” và “mạng xã hội có hoạt động TMĐT” được đưa vào diện điều chỉnh. Điều này phản ánh thực tiễn mới: nhiều mạng xã hội (Facebook, Zalo...) đã tích hợp chức năng bán hàng trực tuyến; đồng thời xuất hiện các siêu ứng dụng cung cấp đa dịch vụ (như Grab, ShopeeFood) hoạt động như một nền tảng TMĐT tổng hợp. Dự thảo phân loại những đối tượng này thành các loại hình TMĐT riêng và quy định trách nhiệm đặc thù, thay vì chỉ tập trung vào website TMĐT và sàn giao dịch TMĐT như trước đây. Bên cạnh đó, Dự thảo cũng quy định về hoạt động TMĐT xuyên biên giới không có hiện diện tại Việt Nam, về nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực TMĐT và người bán nước ngoài giao dịch với người tiêu dùng Việt Nam. Đây là điểm mới nhằm tạo công cụ quản lý đối với các nền tảng TMĐT xuyên biên giới (như Amazon, Alibaba...) và nhà bán lẻ nước ngoài bán hàng vào Việt Nam - những đối tượng trước đây hầu như chưa được điều chỉnh trực tiếp trong Nghị định 52/2013.

Hai là, bổ sung nhiều khái niệm và loại hình dịch vụ mới. Dự thảo Luật đưa ra định nghĩa pháp lý cho một loạt khái niệm chuyên môn mới trong TMĐT như: livestream bán hàng, dịch vụ tiếp thị liên kết, dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử, dịch vụ logistics cho TMĐT, dịch vụ trung gian thanh toán cho TMĐT... Việc bổ sung những khái niệm này giúp khung pháp lý bao quát đầy đủ hệ sinh thái TMĐT hiện đại, từ khâu tiếp thị, giao kết hợp đồng đến thanh toán, giao hàng và các dịch vụ hậu cần liên quan.

Ba là, quy định cụ thể trách nhiệm của các bên tham gia TMĐT. Một nội dung cải tiến của dự thảo Luật là làm rõ vai trò, nghĩa vụ của từng loại chủ thể trong hoạt động TMĐT như thương nhân, tổ chức thiết lập các nền tảng TMĐT (chủ quản sàn giao dịch, chủ website bán hàng trực tuyến trực tiếp...), người bán hàng trên nền tảng, các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ TMĐT (các công ty logistics, cổng thanh toán, đơn vị chứng thực hợp đồng...). Đối với thương nhân nước ngoài bán hàng vào Việt Nam, Dự thảo bước đầu đưa ra yêu cầu phải đăng ký và có pháp nhân hoặc ủy quyền đại diện tại Việt Nam để chịu trách nhiệm về hàng hóa, dịch vụ cung cấp (Song Hà, 2025). Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm của các nhà bán lẻ xuyên biên giới đối với người tiêu dùng Việt Nam, tạo sự công bằng với doanh nghiệp trong nước.

Bốn là, hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử. Dự thảo có chương riêng quy định về quy trình giao kết hợp đồng trong TMĐT; bổ sung và cụ thể hóa các quy định vốn dĩ còn rải rác tại Luật Giao dịch điện tử 2005 và Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, Dự thảo cũng đề cập đến dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử, tạo cơ sở pháp lý cho các bên thứ ba cung cấp dịch vụ bảo đảm an toàn, lưu giữ hợp đồng điện tử. Việc hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng điện tử sẽ tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân khi tham gia giao dịch TMĐT, giúp tăng niềm tin vào môi trường giao dịch số.

Năm là, thúc đẩy TMĐT phát triển theo hướng xanh và bền vững. Dự thảo dành một số điều khoản quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước trong thúc đẩy TMĐT xanh, khuyến khích doanh nghiệp TMĐT áp dụng giải pháp giảm tác động tiêu cực tới môi trường. Đây là sự thể chế hóa chủ trương phát triển TMĐT gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bao trùm. Ngoài ra, yêu cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý TMĐT, tạo điều kiện cho địa phương tham gia phát triển thị trường TMĐT một cách chủ động. Về cải cách thủ tục, dự thảo Luật đã giảm bớt và đơn giản hóa thủ tục hành chính: từ 15 thủ tục hiện hành (theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP và các văn bản liên quan) giảm còn 9 thủ tục. Đồng thời, một số thủ tục mới được bổ sung cho phù hợp đối tượng quản lý mới nhưng được thiết kế theo hướng thực hiện trực tuyến toàn trình để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Mặc dù Dự thảo Luật TMĐT (năm 2025) có nhiều điểm tiến bộ, song qua quá trình lấy ý kiến, các cơ quan thẩm tra và cộng đồng doanh nghiệp đã chỉ ra một số hạn chế, bất cập cần được điều chỉnh, cụ thể là:

Thứ nhất, nguy cơ chồng chéo, mâu thuẫn với các luật liên quan. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trong báo cáo thẩm tra sơ bộ đã lưu ý rằng nội dung dự thảo Luật TMĐT hiện còn sự chồng lấn với quy định của các luật hiện hành và các dự án luật khác đang được trình Quốc hội, như: Luật Giao dịch điện tử, Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thứ hai, một số định nghĩa và quy định còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt trước sự phát triển công nghệ. Đại diện Phòng Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) đánh giá dự thảo Luật đã có nhiều điểm mới tích cực, nhưng các khái niệm cần bao quát hơn, tránh liệt kê quá chi tiết dễ dẫn tới lạc hậu khi xuất hiện mô hình TMĐT mới. Việc quy định cứng nhắc này cũng có thể gây khó khăn cho các đối tượng muốn tham gia vào hoạt động TMĐT nhưng chưa đáp ứng theo một trường hợp nhất định nào đó.

Thứ ba, quy định nhằm tạo “sân chơi bình đẳng” giữa nền tảng trong nước và nước ngoài chưa thực sự rõ ràng. Hiện các sàn nội địa hoặc có pháp nhân tại Việt Nam (Tiki, Shopee, Lazada...) phải tuân thủ nhiều nghĩa vụ (đăng ký sàn, báo cáo, thu thuế nhà thầu cho người bán nước ngoài...), trong khi các nền tảng xuyên biên giới chưa đăng ký (như Amazon, eBay trực tiếp bán vào Việt Nam) hầu như chưa chịu sự quản lý tương đương. Dự thảo luật đã nêu nguyên tắc quản lý thương nhân nước ngoài và có quy định yêu cầu đăng ký hiện diện, chưa có cơ chế chế tài rõ ràng.

Thứ tư, một số quy định kỹ thuật có thể gây gánh nặng hoặc rủi ro cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, dự thảo đặt ra yêu cầu sàn TMĐT phải đảm bảo người bán có thể truy cập và tải dữ liệu giao dịch trong vòng 3 năm, kể cả khi tài khoản bị ngừng. Điều này có thể gây tốn kém tài nguyên hệ thống và tiềm ẩn rủi ro lộ dữ liệu.

GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN LUẬT THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ PHÙ HỢP THỰC TIỄN VIỆT NAM VÀ XU THẾ QUỐC TẾ

Để Luật TMĐT phát huy hiệu quả sau khi được ban hành và phù hợp với bối cảnh hội nhập, một số giải pháp, định hướng hoàn thiện được đề xuất như sau:

Một là, tiếp tục rà soát, đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với hệ thống pháp luật. Ban soạn thảo cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để so sánh, đối chiếu dự thảo Luật TMĐT với các luật hiện hành (Luật Giao dịch điện tử, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Quản lý thuế, Luật An ninh mạng, Luật Cạnh tranh...). Luật TMĐT nên tập trung vào những vấn đề đặc thù của TMĐT mà các luật chung chưa đề cập, đồng thời dẫn chiếu hoặc loại trừ những nội dung đã có luật khác điều chỉnh. Trong quá trình soạn thảo cuối cùng, cũng nên tham vấn ý kiến các chuyên gia pháp luật để phát hiện và xử lý các xung đột tiềm ẩn. Một đạo luật “hợp lý, hài hòa” trong tổng thể hệ thống sẽ giúp khâu thi hành suôn sẻ, hạn chế phát sinh vướng mắc sau này.

Hai là, hoàn thiện các định nghĩa và phạm vi điều chỉnh theo hướng mở, đón trước xu hướng mới. Ban soạn thảo cần tiếp thu các góp ý để các định nghĩa, phạm vi luật đủ rộng nhưng không quá ôm đồm, bảo đảm vừa quản lý hiệu quả vừa không cản trở sự đổi mới sáng tạo trong TMĐT. Có thể xem xét điều chỉnh một số định nghĩa theo hướng nguyên tắc, tránh liệt kê cứng nhắc.

Ba là, Dự thảo Luật cần bổ sung cơ chế phối hợp liên cơ quan (Hải quan, Thuế, Ngân hàng, viễn thông) để giám sát hoạt động TMĐT xuyên biên giới, từ đó thực thi được yêu cầu các nền tảng ngoại tuân thủ nghĩa vụ với thị trường Việt Nam (đăng ký, nộp thuế, bảo vệ người tiêu dùng...). Đồng thời, cơ chế hợp tác quốc tế cần được đẩy mạnh thông qua ký kết thỏa thuận với các nước về trao đổi thông tin thuế, chống gian lận TMĐT và bảo vệ người tiêu dùng.

Bốn là, điều chỉnh các quy định kỹ thuật theo hướng khả thi, hài hòa lợi ích. Ban soạn thảo nên xem xét các góp ý của doanh nghiệp để sửa đổi những yêu cầu chưa hợp lý. Chẳng hạn, quy định về lưu trữ dữ liệu giao dịch 3 năm có thể giảm thời gian lưu trữ hoặc sửa thành “đảm bảo người bán có quyền yêu cầu truy xuất dữ liệu giao dịch cũ trong vòng 3 năm” thay vì bắt buộc sàn lưu sẵn và cung cấp tự động.

Năm là, đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn và chuẩn bị nguồn lực thực thi Luật. Ngay sau khi Luật TMĐT được thông qua, cần có kế hoạch phổ biến rộng rãi nội dung luật đến các doanh nghiệp, tổ chức và người dân. Bộ Công Thương nên phối hợp với các hiệp hội tổ chức hội thảo, tập huấn hướng dẫn thực thi luật cho các sàn TMĐT, doanh nghiệp kinh doanh online và cả cơ quan quản lý địa phương. Đặc biệt, việc phân cấp quản lý cho địa phương đòi hỏi nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý TMĐT cấp tỉnh.

Sáu là, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và cập nhật xu hướng quản trị TMĐT toàn cầu. Để Luật TMĐT theo kịp xu thế, Việt Nam cần chủ động tham gia các diễn đàn, sáng kiến quốc tế về thương mại số. Việc tham chiếu các thông lệ tốt từ những thị trường TMĐT phát triển sẽ giúp hoàn thiện khung pháp lý trong nước để vừa thuận lợi thương mại vừa thu hút đầu tư nước ngoài. Xu thế quốc tế cũng đang đề cao TMĐT xanh và bảo vệ môi trường số, do đó Việt Nam nên cụ thể hóa hơn nữa trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật (ví dụ tiêu chuẩn về bao bì xanh, khuyến khích giao hàng không phát thải).

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2021). Nghị định số 85/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về TMĐT.

2. Cục TMĐT và Kinh tế số (2025). Kế hoạch phát triển TMĐT quốc gia giai đoạn 2026-2030 (dự thảo).

3. Hiệp hội TMĐT Việt Nam (2024). Sách trắng TMĐT Việt Nam 2023.

4. Phan Anh (2022). TMĐT Việt Nam năm 2022 ước đạt 16,4 tỷ USD. https://vneconomy.vn/thuong-mai-dien-tu-viet-nam-nam-2022-uoc-dat-16-4-ty-usd.htm

5. Phương Liên (2025). Định vị rõ Luật TMĐT trong hệ thống pháp luật. https://baochinhphu.vn/dinh-vi-ro-luat-thuong-mai-dien-tu-trong-he-thong-phap-luat-102250922173512602.htm

6. Quốc hội (2025). Dự thảo Luật TMĐT (bản ngày 12/8/2025).

7. Song Hà (2025). Dự thảo Luật TMĐT vẫn còn nhiều quy định gây e ngại cho doanh nghiệp. https://vneconomy.vn/du-thao-luat-thuong-mai-dien-tu-van-con-nhieu-quy-dinh-gay-e-ngai-cho-doanh-nghiep.htm.

Ngày nhận bài: 4/10/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/10/2025; Ngày duyệt đăng: 27/10/2025