Định hướng giải pháp nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng nguồn lực trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk(*)
PGS, TS. Đoàn Triệu Long
Email: Trieulong1503@gmail.com
TS. Trần Thị Hằng
Email: Hangtranhv3@gmail.com
Học viện Chính trị khu vực III
Tóm tắt
Tỉnh Đắk Lắk giữ vị trí chiến lược tại khu vực Tây Nguyên, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, quốc phòng - an ninh và văn hóa. Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn hiện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn trong việc huy động và sử dụng nguồn lực. Bài viết phân tích khái quát thực trạng huy động các nguồn lực, từ đó đề xuất các định hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng nguồn lực trong vùng dân tộc thiểu số ở Tỉnh trong thời gian tới.
Từ khóa: Huy động, sử dụng nguồn lực, dân tộc thiểu số, Đắk Lắk
Summary
Dak Lak province holds a strategic position in the Central Highlands region, playing a vital role in economic development, national defense, security, and cultural preservation. However, ethnic minority areas within the province continue to face numerous challenges in mobilizing and effectively utilizing resources. This paper provides an overview of the current situation regarding resource mobilization and use, identifying key issues and constraints. Based on this analysis, it proposes strategic directions and policy solutions to enhance the efficiency of resource mobilization and utilization in ethnic minority areas of Dak Lak province in the coming period.
Keywords: Resource mobilization, resource utilization, ethnic minorities, Dak Lak Province
GIỚI THIỆU
Việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) tại Đắk Lắk là yếu tố then chốt, quyết định sự ổn định và tăng trưởng bền vững của toàn Tỉnh. Mặc dù Tỉnh đã huy động nguồn tài lực khổng lồ (hơn 4.349 tỷ đồng) cho Chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn nhân lực DTTS chiếm tỷ lệ cao (hơn 35% lực lượng lao động), song hiệu quả sử dụng nguồn lực tổng thể vẫn là một thách thức lớn. Đó là sự mất cân bằng về chất lượng, với 95,0% lao động DTTS là lao động phổ thông, cùng với tình trạng khai thác tài nguyên lãng phí và khó khăn trong tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục vùng sâu. Để chuyển hóa tiềm năng thành sức mạnh thực tế, các nỗ lực hiện tại đòi hỏi phải được dẫn dắt bởi một chiến lược can thiệp rõ ràng, có tính đột phá. Do đó, việc xác lập định hướng giải pháp toàn diện để nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng nguồn lực đã trở thành ưu tiên hàng đầu, góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển và tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS ở Đắk Lắk.
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH ĐẮK LẮK
Về huy động, sử dụng nguồn nhân lực
Đắk Lắk là tỉnh có 49 dân tộc anh em sinh sống với 34,37% dân số là đồng bào DTTS (Đinh Nga, 2024). Do đó, Tỉnh đã chú trọng, tập trung huy động nguồn nhân lực của các DTTS trên địa bàn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS. Trong giai đoạn 2019-2021, tỉnh Đắk Lắk đã huy động được tỷ lệ khá lớn lực lượng lao động DTTS; tỷ trọng nguồn nhân lực là lao động người DTTS luôn chiếm hơn 35% trên tổng số nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động của Tỉnh và ngày càng có xu hướng gia tăng. Cụ thể, số lượng nguồn nhân lực DTTS tăng liên tục, từ 387.036 người (chiếm 35,35%) vào năm 2019, lên 394.516 người (36,54%) vào năm 2020 và đạt 408.630 người (36,78%) vào năm 2021. Đặc biệt, chất lượng nguồn nhân lực DTTS ở tỉnh Đắk Lắk trong những năm này đã có sự tăng lên đáng kể, thể hiện qua những cải thiện về thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, phẩm chất đạo đức, văn hóa và trình độ chuyên môn.
Như vậy, nguồn nhân lực DTTS đang ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Lắk và được xem là lực lượng quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển vùng DTTS. Tuy nhiên, nguồn nhân lực này vẫn còn nhiều hạn chế về chất lượng, thể hiện rõ qua trình độ chuyên môn thấp: toàn Tỉnh chỉ có dưới 0,2% người lao động DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ đại học; 3,5% có trình độ cao đẳng, trung cấp; còn lại 95,0% là lao động phổ thông. Điều này cho thấy tỉnh Đắk Lắk đang gặp khó khăn lớn trong việc huy động nguồn nhân lực DTTS chất lượng cao.
Về huy động, sử dụng nguồn vật lực
Để phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS, Đắk Lắk đã tập trung huy động các nguồn lực vật chất như tài nguyên thiên nhiên và hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn. Cụ thể, Tỉnh đã tập trung huy động các nguồn lực cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, các cơ sở của Bộ đội Biên phòng vào giáo dục, chăm sóc sức khỏe người dân, đặc biệt trong chăm sóc sức khỏe đồng bào DTTS (tổ chức 2 phòng khám quân dân y kết hợp để khám, chữa bệnh và tuyên truyền cho đồng bào DTTS trên địa bàn biên giới).
Tuy nhiên, việc huy động và phát huy nguồn lực này còn nhiều hạn chế: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác triệt để, có hiệu quả, còn lãng phí nguồn lực hoặc bị khai thác bừa bãi dẫn đến cạn kiệt, thiếu nguồn lực cho đồng bào DTTS canh tác. Các nguồn lực phục vụ cho y tế, giáo dục đầu tư chưa nhiều, còn thiếu thốn, nên khi huy động gặp khó khăn. Đặc biệt, việc người DTTS sinh sống tập trung ở vùng sâu, vùng xa, đã gây khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực y tế và giáo dục.
Về huy động, sử dụng nguồn tài lực
Để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh Đắk Lắk đã huy động tổng cộng hơn 4.349 tỷ đồng. Nguồn tài lực này chủ yếu đến từ ngân sách trung ương (chiếm 85,3%), trong khi ngân sách địa phương đóng góp 7,2%; vốn tín dụng chính sách chiếm 2,4% và đóng góp từ cộng đồng chiếm 5,1% (UBND tỉnh Đắk Lắk, 2025).
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ báo cáo của UBND tỉnh và Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đắk Lắk
Ngoài các nguồn vốn ngân sách, Đắk Lắk cũng tích cực huy động vốn ngoài ngân sách từ doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư đạt gần 113.000 tỷ đồng tổng vốn đầu tư trên toàn Tỉnh. Tuy nhiên, phần lớn nguồn vốn này vẫn tập trung vào phát triển kinh tế chung, chưa chuyên biệt cho vùng DTTS. Để tăng hiệu quả huy động vốn, Tỉnh đã chủ động ban hành nhiều nghị quyết, cơ chế đặc thù và kế hoạch phân bổ vốn cụ thể cho các dự án thành phần, đồng thời phối hợp lồng ghép nguồn vốn giữa 3 chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tối ưu hóa nguồn lực.
Nguồn tài lực huy động được đã được sử dụng tập trung và hiệu quả nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp bách và mang tính nền tảng cho phát triển vùng DTTS. Cụ thể, từ năm 2021-2024, Tỉnh đã sử dụng hơn 4.658 tỷ đồng, chủ yếu từ ngân sách trung ương và vốn tín dụng chính sách, để thực hiện các dự án trọng tâm như: hỗ trợ đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt (Dự án 1), bố trí dân cư ổn định (Dự án 2) và đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu (Dự án 4). Các dự án được triển khai rộng khắp 15 huyện, thị xã, thành phố, ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn như: Ea Súp, Krông Bông, Lắk. Nhờ sự tập trung này, tỷ lệ giải ngân đã tăng từ 51,9% năm 2023 lên 56,1% năm 2024, đồng thời có sự chuyển dịch từ đầu tư “hạ tầng cứng” sang hỗ trợ “mềm” như: sinh kế, duy tu, vận hành. Nhìn chung, việc sử dụng nguồn tài lực đã giúp nâng cao điều kiện sống, rút ngắn khoảng cách phát triển, đồng thời đặt nền móng cho phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS trong thời gian tới. Tuy nhiên, với đặc trưng là một tỉnh nghèo của Tây Nguyên với đông đồng bào DTTS sinh sống, Đắk Lắk gặp nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn lực từ phía người dân, đặc biệt người dân các DTTS.
ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở ĐẮK LẮK
Để nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng nguồn lực trong vùng đồng bào DTTS, trong thời gian tới, tỉnh Đắk Lắk cần chú trọng thực hiện tốt các định hướng giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ
Một trong những định hướng quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn lực trong vùng đồng bào DTTS là việc xây dựng và thực hiện các chính sách đặc thù phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương. Các chính sách này cần được thiết kế dựa trên việc đánh giá toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như tập quán của các dân tộc, nhằm đảm bảo tính khả thi và mang lại lợi ích lâu dài. Cụ thể, các chính sách cần tập trung vào hỗ trợ phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống của người dân, đồng thời nâng cao chất lượng các dịch vụ giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội.
Bên cạnh đó, việc tăng cường sự phối hợp giữa các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng dân cư đóng vai trò quyết định trong quá trình triển khai. Chính quyền các cấp cần phát huy vai trò điều phối, hướng dẫn và giám sát, trong khi người dân và cộng đồng địa phương cần được khuyến khích tham gia tích cực vào các chương trình, dự án phát triển. Điều này không chỉ giúp đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch trong thực hiện, mà còn tạo sự đồng thuận và trách nhiệm chung của toàn xã hội. Đồng thời, cần chú trọng xây dựng cơ chế phản hồi, giám sát hiệu quả chính sách từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, đảm bảo chính sách được thực thi đúng mục tiêu, phù hợp với thực tiễn. Những phản hồi từ cơ sở sẽ là cơ sở quan trọng để các nhà quản lý kịp thời điều chỉnh chính sách, khắc phục các bất cập, hạn chế. Ngoài ra, việc lồng ghép các chính sách hỗ trợ với các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án lớn cũng là giải pháp quan trọng để tối ưu hóa nguồn lực, tránh chồng chéo và lãng phí.
Thứ hai, huy động đa dạng nguồn lực đầu tư phát triển
Huy động đa dạng nguồn lực là một trong những chiến lược quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện tại vùng đồng bào DTTS trên địa bàn. Trước tiên, cần khuyến khích mạnh mẽ sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các cá nhân, tổ chức xã hội trong các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục và hạ tầng. Các chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế, hỗ trợ thủ tục đầu tư và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cần được thực thi nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Việc triển khai các dự án phát triển theo hướng hợp tác công - tư (PPP) có thể là một mô hình hiệu quả để huy động các nguồn lực xã hội hóa. Liên kết giữa các tỉnh trong vùng Tây Nguyên và các vùng lân cận không chỉ giúp mở rộng thị trường tiêu thụ mà còn tạo điều kiện cho việc chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực và công nghệ.
Bên cạnh đó, việc huy động các nguồn vốn hỗ trợ quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các dự án mang tính bền vững và dài hạn. Các chương trình hợp tác với tổ chức quốc tế nên tập trung vào các lĩnh vực như: phát triển nông lâm nghiệp bền vững, bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên và hỗ trợ sinh kế bền vững cho người dân. Những dự án này không chỉ góp phần cải thiện đời sống mà còn giúp tăng cường năng lực tự chủ của cộng đồng DTTS.
Để đảm bảo hiệu quả huy động nguồn lực, cần xây dựng một cơ chế quản lý minh bạch, công bằng và có sự tham gia giám sát của cộng đồng. Các nguồn vốn huy động phải được sử dụng đúng mục đích, tránh tình trạng lãng phí, chồng chéo hoặc thất thoát. Đồng thời, cần ưu tiên các dự án có tính chiến lược, tập trung giải quyết những thách thức cơ bản và tạo động lực cho sự phát triển bền vững của khu vực.
Thứ ba, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi quyết định sự phát triển bền vững của vùng đồng bào DTTS, do đó, việc đẩy mạnh đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần được đặt lên hàng đầu. Trước tiên, cần tăng cường các chương trình đào tạo nghề nhằm trang bị cho người lao động những kỹ năng phù hợp với nhu cầu thực tế của địa phương, đặc biệt trong các lĩnh vực thế mạnh như: nông nghiệp, du lịch và chế biến nông sản. Các chương trình này cần được thiết kế linh hoạt, đa dạng về nội dung và hình thức đào tạo, đảm bảo tiếp cận được đông đảo người dân, kể cả những đối tượng thuộc nhóm khó khăn hoặc chưa có kỹ năng cơ bản.
Cùng với đó, ưu tiên phát triển giáo dục tại các vùng khó khăn là nhiệm vụ then chốt để nâng cao trình độ dân trí và ý thức cộng đồng. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trường học, cung cấp trang thiết bị dạy học hiện đại và cải thiện chế độ đãi ngộ cho giáo viên tại các vùng sâu, vùng xa là những giải pháp cần thiết. Các chính sách hỗ trợ học sinh DTTS như: miễn giảm học phí, cấp học bổng và hỗ trợ chi phí sinh hoạt cũng cần được triển khai đồng bộ để đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục của mọi trẻ em.
Việc kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo nghề và giáo dục phổ thông, đồng thời gắn kết với nhu cầu của thị trường lao động, không chỉ giúp tăng cường năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực, mà còn tạo động lực cho người dân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, do đó, không chỉ là giải pháp ngắn hạn, mà còn là chiến lược lâu dài để vùng đồng bào DTTS vươn lên một cách bền vững và tự chủ.
Thứ tư, phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ
Hạ tầng là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững vùng DTTS. Ưu tiên đầu tư giao thông liên vùng/liên thôn, thủy lợi quy mô phù hợp địa hình, điện ổn định và viễn thông, Internet băng rộng để giảm chi phí vận chuyển, bảo đảm nước tưới -chống hạn lũ, thúc đẩy chuyển đổi số và nâng chất lượng sống. Đi kèm là kế hoạch vận hành, duy tu và chuẩn kỹ thuật thích ứng biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, triển khai tái định cư an toàn tại khu vực rủi ro thiên tai với quy hoạch hợp lý, có nhà ở bền vững, thân thiện môi trường, phù hợp tập quán; bảo đảm quỹ đất sinh kế, hạ tầng xã hội (trường, trạm y tế, nhà văn hóa) để người dân ổn định và phát triển kinh tế. Đặc biệt, cần huy động đa dạng nguồn lực: ngân sách nhà nước, xã hội hóa, PPP, ODA/NGO, lồng ghép với nông thôn mới, giảm nghèo bền vững. Tăng giám sát tiến độ - chất lượng - hiệu quả, công khai, minh bạch và sự tham gia của cộng đồng để tối ưu nguồn lực, bảo đảm dự án đúng mục tiêu và bền vững.
Thứ năm, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
Bảo tồn văn hóa DTTS là nền tảng giữ bản sắc và tạo động lực phát triển bền vững. Ưu tiên hỗ trợ bảo tồn di sản vật thể/phi vật thể (lễ hội, nghệ thuật dân gian, nghề thủ công, trang phục, kiến trúc), thực hiện ghi chép - số hóa bài bản và lồng ghép giáo dục để bồi đắp niềm tự hào, trách nhiệm cho thế hệ trẻ. Khai thác hợp lý tài nguyên văn hóa cho du lịch cộng đồng (sinh thái, trải nghiệm) nhằm quảng bá bản sắc và tạo sinh kế, nhưng quản lý chặt để tránh thương mại hóa, khai thác quá mức, ảnh hưởng giá trị cốt lõi và môi trường. Bảo tồn phải do cộng đồng làm chủ: người dân tham gia từ hoạch định đến giám sát; phát huy vai trò người có uy tín, nghệ nhân, già làng làm “cầu nối” truyền dạy. Đồng thời, lồng ghép bảo tồn với chiến lược kinh tế - xã hội, giáo dục, truyền thông và du lịch để huy động nguồn lực, nâng cao nhận thức và lan tỏa giá trị văn hóa trong phát triển bền vững.
Thứ sáu, tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ
Ứng dụng khoa học - công nghệ là đột phá nâng năng suất và chất lượng sống vùng DTTS. Trong nông nghiệp, ưu tiên canh tác thông minh (tưới tự động/cảm biến, giống năng suất, chất lượng cao, cơ giới hóa khâu làm đất - thu hoạch), sơ chế - bảo quản/chuỗi lạnh và chế biến sâu để giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế số nông thôn bằng cách đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, xây thương hiệu số/truy xuất nguồn gốc, tập huấn kỹ năng chụp ảnh - kể chuyện sản phẩm, tiếp thị số và thanh toán trực tuyến. Xây dựng cơ sở dữ liệu mở về giá cả, nhu cầu thị trường, mùa vụ; cổng thông tin cung - cầu giúp hộ/hợp tác xã ra quyết định kịp thời. Ngoài ra, cần hoàn thiện chính sách kích cầu công nghệ: tín dụng ưu đãi và hỗ trợ khấu hao thiết bị cho hộ/hợp tác xã/doanh nghiệp nhỏ; thí điểm PPP cho hạ tầng số nông thôn; liên kết viện - trường - doanh nghiệp để thử nghiệm và chuyển giao công nghệ; quỹ thử nghiệm cho mô hình mới. Trọng tâm là đào tạo liên tục (tay nghề, quản trị, kỹ năng số), bảo đảm công nghệ đi kèm năng lực vận hành, tạo nền tảng để vùng DTTS bắt kịp chuyển đổi số và hội nhập thị trường hiện đại.
Thứ bảy, tăng cường vai trò của người dân và người có uy tín trong huy động, sử dụng nguồn lực
Sự tham gia của người dân, đặc biệt là người có uy tín (già làng, trưởng bản, nhân sĩ trong văn hóa, giáo dục, kinh tế), là điều kiện then chốt để huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả, bền vững. Với ảnh hưởng xã hội và sự tín nhiệm cao, họ kết nối chính quyền với cộng đồng, giải thích chính sách, vận động người dân tham gia dự án và giảm hoài nghi, phản kháng không cần thiết. Vai trò của họ còn tạo đồng thuận, gắn kết các nhóm xã hội, củng cố niềm tin và trách nhiệm cộng đồng. Đồng thời, họ góp phần bảo tồn, lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống song hành với phát triển kinh tế. Ở cấp cơ sở, người có uy tín thường dẫn dắt giải quyết vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, hòa giải xung đột, thúc đẩy mô hình hợp tác. Việc phát huy lực lượng nòng cốt này sẽ tối đa hóa tiềm năng nội sinh và thúc đẩy phát triển bền vững vùng DTTS.
KẾT LUẬN
Để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn lực trong vùng đồng bào DTTS ở Đắk Lắk trong thời gian tới, các giải pháp toàn diện và đồng bộ là cần thiết. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ, huy động đa dạng nguồn lực đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ là những yếu tố then chốt nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đồng thời, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống... đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường phát triển ổn định và hài hòa. Với những định hướng rõ ràng và các giải pháp cụ thể, Đắk Lắk sẽ có những bước tiến vững chắc trong việc nâng cao chất lượng đời sống của người dân, xây dựng cộng đồng DTTS đoàn kết, phát triển và hội nhập vào sự phát triển chung của cả nước.
(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.
Tài liệu tham khảo:
1. Đinh Nga (2024). Tập trung nguồn lực phát triển vùng đồng bào DTTS. https://baodaklak.vn/tin-noi-bat/202410/tap-trung-nguon-luc-phat-trien-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-dfd2225/.
2. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2022). Nghị quyết ngày 19/5/2022 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
3. UBND tỉnh Đắk Lắk (2019). Báo cáo kết quả phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS giai đoạn 2016-2018; muc tiêu, nhiệm vụ, giai pháp giai đoạn 2021-2030.
4. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021). Báo cáo thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc từ 2016 đến nay.
5. UBND tỉnh Đắk Lắk (2025). Báo cáo số 11/BC-BDT ngày 20/1/2025 về kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi năm 2024.
| Ngày nhận bài: 26/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 25/10/2025; Ngày duyệt đăng: 11/11/2025 |

Bình luận