Chuyển đổi việc làm trong kỷ nguyên số ở Việt Nam: Bài học từ Hàn Quốc và Singapore
TS. Đỗ Lâm Hoàng Trang
Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh
Email: trangdlh@ueh.edu.vn
Tóm tắt
Bài viết này phân tích thực trạng chuyển đổi việc làm ở Việt Nam và so sánh kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Singapore. Trên cơ sở lý thuyết kinh tế chính trị và vốn con người, bài viết làm rõ những thách thức lớn của thị trường lao động Việt Nam như cơ cấu lao động nặng về nông nghiệp, kỹ năng số hạn chế và chính sách đào tạo, an sinh còn phân mảnh. Thực tiễn từ Hàn Quốc và Singapore cho thấy thành công phụ thuộc vào thiết kế thể chế, sự điều phối liên ngành và cơ chế tài chính hóa học tập suốt đời. Từ đó, bài viết đề xuất định hướng chính sách cho Việt Nam, nhấn mạnh chuẩn kỹ năng theo ngành, quỹ kỹ năng, liên kết đào tạo, an sinh, đổi mới và phát triển dữ liệu việc làm thông minh.
Từ khóa: Chuyển đổi việc làm, kinh tế số, kỹ năng số, an sinh xã hội, Hàn Quốc, Singapore, chính sách công, vốn con người
Summary
The study analyzes the current situation of job transformation in Viet Nam and compares it with the experiences of South Korea and Singapore. Grounded in the theoretical frameworks of political economy and human capital, the paper highlights major challenges facing Vietnam’s labor market, including its agriculture-heavy employment structure, limited digital skills, and fragmented training and social welfare policies. Evidence from South Korea and Singapore indicates that successful labor market transformation largely depends on institutional design, cross-sectoral coordination, and the financialization of lifelong learning. Based on these insights, the paper proposes policy directions for Viet Nam, emphasizing sector-based skill standards, skill development funds, training-welfare linkages, innovation, and the development of intelligent labor market data systems.
Keywords: Job transformation, digital economy, digital skills, social welfare, South Korea, Singapore, public policy, human capital
GIỚI THIỆU
Trong 3 thập kỷ gần đây, làn sóng số hóa, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) đã làm thay đổi sâu sắc cấu trúc việc làm và yêu cầu kỹ năng trên toàn cầu. Thực tiễn cho thấy, AI không chỉ thay thế mà còn tái cấu trúc và bổ trợ kỹ năng lao động, đặt ra yêu cầu xây dựng chiến lược phát triển kỹ năng và an sinh chủ động, thích ứng với chuyển đổi số.
Đối với Việt Nam, quá trình chuyển đổi số mở ra cơ hội lớn nhờ lực lượng lao động dồi dào và tiến trình công nghiệp hóa, song cũng bộc lộ những hạn chế như tỷ lệ lao động nông nghiệp cao và kỹ năng số còn hạn chế. Nghiên cứu này phân tích áp lực và cơ hội chuyển đổi việc làm tại Việt Nam trong kỷ nguyên số, so sánh chính sách của Hàn Quốc và Singapore, từ đó rút ra bài học và hàm ý chính sách cho chiến lược phát triển kỹ năng và an sinh trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Theo nghiên cứu của Lewis (1954), mô hình Chuyển dịch cơ cấu lao động giải thích rằng trong nền kinh tế nông nghiệp tồn tại một lượng lao động dư thừa và khi công nghiệp phát triển, lực lượng này sẽ dịch chuyển sang khu vực mới mà không làm suy giảm năng suất nông nghiệp. Lý thuyết này cung cấp một khung khái niệm quan trọng để hiểu áp lực chuyển dịch lao động trong giai đoạn đầu tiến trình công nghiệp hóa. Cùng với đó, giả thuyết hình chữ U ngược của Kuznets (1955) cho rằng quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ban đầu làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập, trước khi giảm xuống nhờ sự mở rộng của tầng lớp trung lưu và chính sách tái phân phối. Như vậy, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu giúp giải thích cách lao động dịch chuyển giữa các ngành theo động lực kinh tế, đồng thời là nền tảng để phân tích tác động mới của số hóa và tự động hóa. Những công nghệ này không chỉ tạo ra áp lực tái phân bổ lao động mà còn buộc cơ cấu ngành nghề phải thích ứng nhanh hơn.
Trong khi đó, lý thuyết Vốn con người của Becker (1964) xem con người là tài sản có thể đầu tư thông qua giáo dục, đào tạo và sức khỏe, nhằm nâng cao năng lực và thu nhập tương lai. Becker (1964) phân biệt đào tạo chính thức và đào tạo tại chỗ, đồng thời nhấn mạnh lợi tức xã hội và cá nhân từ đầu tư vào nhân lực. Trong bối cảnh chuyển đổi số, lý thuyết này được mở rộng thành khái niệm kỹ năng số, kỹ năng mềm và học tập suốt đời, nhấn mạnh rằng năng lực ban đầu không đủ, người lao động cần liên tục tái đầu tư kỹ năng để thích ứng. Đây chính là cầu nối lý thuyết quan trọng để hiểu vì sao và bằng cách nào lao động có thể vượt qua áp lực số hóa thông qua nâng cao kỹ năng.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thiết kế và thực thi chính sách là nhân tố quyết định thành công của quá trình chuyển đổi việc làm trong bối cảnh số hóa. Hai trường hợp điển hình ở Đông Á minh chứng rõ nét điều này. Cụ thể, từ năm 2020, Hàn Quốc triển khai Chương trình Digital New Deal như một dự án đổi mới quốc gia nhằm thúc đẩy hạ tầng và dữ liệu số, đồng thời đầu tư mạnh mẽ vào kỹ năng số và an sinh việc làm, với quy mô hàng trăm nghìn tỷ won đến năm 2025 (Ministry of Science and ICT, 2020; Government of the Republic of Korea, 2020). Trong khi đó, Singapore thông qua Chương trình SkillsFuture, thiết lập một hệ sinh thái học tập suốt đời với tín dụng kỹ năng cá nhân, dịch vụ tư vấn nghề nghiệp, khung kỹ năng theo ngành và cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo (SkillsFuture Singapore, 2025). Hai mô hình này đại diện cho 2 cách tiếp cận bổ sung: (i) đầu tư công quy mô lớn gắn với an sinh thích ứng; và (ii) cơ chế tài chính hóa và thể chế hóa học tập suốt đời theo hướng thị trường, đặt doanh nghiệp ở vị trí trung tâm của đổi mới kỹ năng.
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu trong nước đã phân tích tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 bao gồm internet vạn vật (IoT), AI, dữ liệu lớn (Big data) đối với việc làm và kỹ năng, qua đó cho thấy lao động kỹ năng thấp dễ bị thay thế, trong khi lao động có kỹ năng số có thể tận dụng cơ hội để mở rộng dịch vụ số. Các khảo sát vi mô theo ngành và địa phương cũng đã được sử dụng để đo lường nguy cơ mất việc và khả năng thích ứng kỹ năng trong các ngành chế biến, xuất khẩu và dịch vụ tại các vùng kinh tế trọng điểm như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh.
Trên nền tảng này, bài viết lựa chọn khung phân tích Kỹ năng - An sinh xã hội - Đổi mới sáng tạo (World Economic Forum, 2025; OECD, 2023). Khung phân tích này này giả định rằng khả năng thích ứng trước chuyển đổi số không chỉ phụ thuộc vào cung ứng kỹ năng, mà còn gắn chặt với cơ chế an sinh linh hoạt để giảm chi phí chuyển đổi và chính sách đổi mới sáng tạo nhằm kích thích cầu kỹ năng. Đây sẽ là cấu trúc tham chiếu chính để phân tích so sánh các trường hợp quốc tế và soi chiếu vào thực trạng ở Việt Nam.
THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ Ở VIỆT NAM
Về tỷ trọng lao động nông nghiệp và lao động giản đơn trong cơ cấu lao động
Trong bức tranh chuyển dịch cơ cấu việc làm ở Việt Nam có tỷ trọng lao động nông nghiệp cao so với các nền kinh tế công nghiệp hóa sâu. Dữ liệu Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê - Bộ Tài chính) cho thấy năm 2023, khoảng 33% lao động làm việc trong nông nghiệp, 31% trong công nghiệp và 36% trong dịch vụ (Hình 1).
Hình 1: Cơ cấu việc làm theo ngành của Việt Nam năm 2023
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2024)
Cấu trúc việc làm hiện nay ở Việt Nam vẫn mang dấu ấn thặng dư lao động nông nghiệp và phình to ở các nghề đòi hỏi kỹ năng thấp, tương thích với giai đoạn chuyển dịch cơ cấu chưa hoàn tất mà lý thuyết Lewis, Kuznets đã dự báo đối với các nền kinh tế đang phát triển. Theo Báo cáo Khảo sát lao động - việc làm 2023 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ ở mức thấp, phản ánh nền tảng kỹ năng chính quy còn hạn chế, đây là một nguyên nhân khiến cơ cấu nghề nghiệp nghiêng về các nhóm việc làm giản đơn, ít đòi hỏi kỹ năng số.
Khi tỷ lệ lao động có văn bằng, chứng chỉ thấp, tín hiệu hóa kỹ năng kém làm gia tăng sự lệch pha cung - cầu kỹ năng giữa nhu cầu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số và năng lực hiện có của người lao động. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank, 2022-2024) về cầu kỹ năng số tại Việt Nam cho thấy cả kỹ năng số cơ bản và nâng cao đều tăng nhanh, hàm ý nếu không nâng cấp vốn nhân lực chính quy và học tập suốt đời thì cơ cấu nghề nghiệp sẽ tiếp tục kẹt ở phân khúc giản đơn.
Bên cạnh đó, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng lớn lao động hoạt động ngoài khu vực chính thức, thường gắn với việc làm giá trị gia tăng thấp, năng suất thấp và ít tiếp cận đào tạo, bảo hiểm và dịch vụ việc làm, làm suy yếu động cơ đầu tư kỹ năng và khó chuyển trục sang các nghề có hàm lượng công nghệ cao. Khi lao động tập trung ở khu vực có năng suất biên thấp, tăng lương bền vững gặp giới hạn.
Về kỹ năng số
Về năng lực kỹ năng, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng chứng chỉ tại Việt Nam còn thấp so với yêu cầu của nền kinh tế số. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (2024), khoảng 27-27,2% lực lượng lao động có văn bằng chứng chỉ, cho thấy hơn 70% chưa có chứng chỉ nghề nghiệp chuyên môn chính quy, tạo ra độ lệch kỹ năng đáng kể khi doanh nghiệp đẩy nhanh số hóa và tự động hóa (Hình 2).
Hình 2: Tỷ lệ lao động có/không có văn bằng chứng chỉ năm 2023
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2024)
Hiện nay, tại Việt Nam khoảng cách cung - cầu kỹ năng số ngày càng rõ rệt. Doanh nghiệp đòi hỏi cả kỹ năng số cơ bản như văn phòng số, xử lý dữ liệu và kỹ năng số nâng cao như AI, điện toán đám mây (cloud), an ninh mạng, trong khi nguồn cung lao động có kỹ năng được chứng nhận chính thức còn hạn chế và thiếu cập nhật. Các phân tích Ngân hàng Thế giới (World Bank, 2022-2024) về nhu cầu kỹ năng số ở Việt Nam cũng cho thấy nhu cầu tăng nhanh ở nhiều ngành và nhấn mạnh vai trò của học tập suốt đời và đào tạo lại để thu hẹp khoảng cách này.
Về chính sách đào tạo nghề và chuyển đổi việc làm
Khung chính sách vĩ mô về chuyển đổi số của Việt Nam đã được hình thành theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đây chính là nền tảng thể chế quan trọng để liên kết chính sách kỹ năng với thị trường lao động, đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, vẫn còn thách thức không nhỏ ở khâu thực thi và phối hợp chính sách, đó là các chương trình đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng và hỗ trợ chuyển việc vẫn phân tán qua nhiều bộ, ngành, chuẩn kỹ năng ngành và cơ chế đặt hàng, đồng tài trợ cùng với doanh nghiệp còn hạn chế, khiến cho việc kết nối cung - cầu kỹ năng chưa đạt hiệu quả.
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
Hàn Quốc
Hàn Quốc đã tiếp cận quá trình chuyển đổi việc làm trong thời đại số thông qua một khung thể chế tích hợp mạnh mẽ, trong đó trục chính sách về kỹ năng, việc làm được điều phối bởi Bộ Lao động và Việc làm Hàn Quốc (MOEL) và Cơ quan Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc (HRD); trục chuyển đổi số và dữ liệu được dẫn dắt bởi Bộ Khoa học và Công nghệ thông tin (MSIT) dưới dự án quốc gia Thỏa thuận mới về kỹ thuật số (Digital New Deal) khởi động từ năm 2020 và được mở rộng trong các chương trình tiếp theo. Cách tiếp cận này đặt trọng tâm vào: (i) Điều phối liên bộ giữa các cơ quan chính phủ; (ii) Chuẩn kỹ năng gắn chặt với nhu cầu thị trường lao động; (iii) Cơ chế tài chính hóa việc học tập suốt đời thông qua quỹ bảo hiểm việc làm để mở rộng khả năng đào tạo lại và nâng cấp kỹ năng; và (iv) nền tảng số hỗ trợ đào tạo và dịch vụ việc làm (The Diplomat, 2020; OECD, 2021). Ví dụ, chương trình Digital New Deal đầu tư hàng chục nghìn tỷ won và tạo hơn 1,9 triệu việc làm mới đến năm 2025.
Hơn nữa, Hàn Quốc triển khai nền tảng số như K‑Digital Platform, K-Digital Training để cung cấp khóa kỹ năng số: dữ liệu, đám mây, an ninh mạng, AI cho người lao động hiện tại, người tìm việc và người tự doanh, theo cơ chế đồng tài trợ giữa quỹ đầu tư giáo dục, doanh nghiệp và cá nhân. Hệ thống số cũng kết nối với dịch vụ việc làm công và nền tảng dữ liệu thị trường lao động giúp theo dõi kết quả đào tạo, việc làm.
Khác biệt so với mô hình vốn đơn thuần là đào tạo để chuyển đổi, Hàn Quốc đã tích hợp đào tạo vào hệ thống bảo hiểm việc làm và các chính sách thị trường lao động chủ động. Khi người lao động bị mất việc hoặc có rủi ro mất việc sẽ được tư vấn và đào tạo lại, doanh nghiệp sẽ nhận trợ cấp đào tạo khi đáp ứng các tiêu chí về khóa học được phê duyệt và giờ học tối thiểu (OECD, 2021).
Singapore
Singapore vận hành hệ sinh thái kỹ năng, việc làm theo mô hình tam giác giữa nhà nước, doanh nghiệp và nghiệp đoàn. Cơ chế chủ đạo được điều phối bởi SkillsFuture Singapore (SSG), Hội đồng trực thuộc (WSG) và Bộ Nhân lực Singapore (MOM). Trong đó, SSG giữ vai trò thiết kế và điều phối các chương trình năng lực và tín dụng kỹ năng cá nhân; WSG chịu trách nhiệm chính sách thị trường lao động chủ động, kết nối tuyển dụng; MOM ban hành và thực thi chính sách lao động, việc làm. Nền tảng số như hướng dẫn nghề, đăng ký khóa, chi trả tín dụng và cổng việc làm quốc gia giúp nối kết chu trình từ học đến làm việc.
Tài chính cho hệ thống được đảm bảo thông qua thuế phát triển kỹ năng (SDL) mức đóng 0,25% tổng lương mỗi tháng cho mỗi lao động, tối thiểu 2 SGD với lương dưới 800 SGD và trần 11.25 SGD với lương trên 4.500 SGD. Khoản thu này chuyển vào Quỹ phát triển kỹ năng (SDF) được quản lý bởi SSG, dùng để trợ cấp học phí, chi phí vắng mặt và hỗ trợ đào tạo. Cấu trúc Thuế → Quỹ → Trợ cấp giúp huy động doanh nghiệp tham gia và tạo nguồn tài chính bền vững cho nâng cấp kỹ năng (CPF Board, 2025).
Theo chương trình khung SkillsFuture, mọi công dân được cấp SkillsFuture Credit, tham gia chuỗi khóa ưu tiên theo trụ cột: kỹ năng số, kỹ năng xanh, công nghiệp 4.0, và chính sách hỗ trợ học phí cho nhóm trung niên nâng cấp kỹ năng (SkillsFuture Singapore, 2025). Song song đó, sáng kiến thúc đẩy Singapore trở thành một trung tâm truyền thông và công nghệ với chương trình tăng tốc kỹ năng (TeSA) hỗ trợ phát triển lực lượng công nghệ thông tin trong kinh tế số, đào tạo, đánh giá kỹ năng dữ liệu, AI, cloud, an ninh mạng và thúc đẩy tuyển dụng dựa vào kỹ năng thay vì thuần bằng cấp.
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Phân tích kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Singapore cho thấy, thành công trong quá trình chuyển đổi việc làm trong kỷ nguyên số không chỉ phụ thuộc vào quy mô đầu tư, mà quan trọng hơn là cách thức thiết kế thể chế, sự điều phối chính sách và cơ chế tài chính bền vững. Đây chính là những gợi ý quan trọng để Việt Nam định hình một chiến lược về kỹ năng, an sinh và đổi mới mang tính hệ thống, qua đó góp phần bảo đảm việc triển khai hiệu quả Chương trình Chuyển đổi số quốc gia.
Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của Hàn Quốc và Singapore, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, Việt Nam cần ban hành chuẩn kỹ năng theo ngành và tài chính hóa học tập suốt đời, khung kỹ năng số theo ngành cho 12-15 lĩnh vực ưu tiên và định nghĩa năng lực theo 3 bậc cơ bản - trung gian - nâng cao, xây dựng bản đồ nghề nghiệp và lộ trình đào tạo, đồng thời cập nhật hằng năm dựa trên báo cáo “Cầu kỹ năng cho Kinh tế số”. Thiết lập Quỹ Kỹ năng số, áp dụng mức đóng nhỏ trên quỹ lương ưu tiên doanh nghiệp có trên 50 lao động, đổi lại là hỗ trợ học phí và chi phí lương trong thời gian đào tạo, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được ưu tiên hỗ trợ cao hơn. Cơ chế giải ngân gắn chặt với kết quả đầu ra, gắn với tỷ lệ hoàn thành, việc làm, tăng thu nhập. Chuẩn hóa công nhận tín chỉ chéo giữa các hệ đào tạo giáo dục và đào tạo kỹ thuật, đại học, doanh nghiệp; triển khai công nhận học tập trước đây nhằm tích hợp lao động phi chính thức vào hệ thống đào tạo chính quy.
Hai là, liên thông giữa bảo hiểm thất nghiệp và đào tạo lại, gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm thất nghiệp với kế hoạch học tập cá nhân, kết hợp dịch vụ tư vấn nghề nghiệp, huấn luyện và thực tập có lương. Xây dựng chương trình quy mô quốc gia kết hợp việc làm tạm thời, đào tạo ngắn hạn và thực tập chuyển nghề cho các lĩnh vực thiếu hụt kỹ năng số; công bố định kỳ các mục tiêu tuyển dụng - đào tạo - việc làm, ưu tiên hỗ trợ lao động trung niên thông qua các chính sách tương tự của Singapore, bổ sung mức tài trợ 10%-25% cùng với dịch vụ cố vấn nghề chuyên sâu.
Ba là, kéo cầu kỹ năng từ phía doanh nghiệp và khu vực công, mở rộng mua sắm công số hóa nhằm tạo cầu kỹ năng số trong khu vực công thông qua đặt hàng dịch vụ số và AI. Triển khai đầu tư đối với các ngành trọng điểm như: chế biến, nông nghiệp thông minh, logistics, tài chính, y tế, du lịch, đồng tài trợ các dự án ứng dụng dữ liệu và AI, đồng thời gắn với chỉ tiêu tuyển dụng, đào tạo và việc làm kỹ năng số.
Bốn là, phát triển nền tảng dữ liệu kỹ năng, việc làm, xây dựng hệ thống thị trường lao động thông minh tích hợp dữ liệu từ Cục Thống kê, cổng việc làm công và các nguồn tuyển dụng trực tuyến, công bố định kỳ các bản tin kỹ năng theo ngành, địa phương và mức lương.
Tài liệu tham khảo:
1. Becker, G. S. (1964). Human capital: A theoretical and empirical analysis, with special reference to education. University of Chicago Press.
2. CPF Board (2025). Skills Development Levy - employer obligations, https://www.cpf.gov.sg/employer/employer-obligations/skills-development-levy.
3. Government of the Republic of Korea (2020-2021). Korean New Deal/Digital New Deal (policy materials). Ministry of Science and ICT; IEA policy database; Korea.net press release. https://www.msit.go.kr/.
4. ILO (2025). Strengthening labour institutions and worker voice: A review of challenges and opportunities (Report on the Future of Work). https://www.ilo.org/.
5. Kuznets, S. (1955). Economic growth and income inequality. American Economic Review, 45(1), 1-28. https://www.jstor.org/stable/1811581.
6. Lewis, W. A. (1954). Economic development with unlimited supplies of labour. The Manchester School, 22(2), 139-191.
7. Ministry of Science and ICT, Republic of Korea (2020). The Korean New Deal: Digital New Deal Policy Brief. Government of Korea. https://english.msit.go.kr/.
8. OECD (2021). OECD Skills Strategy: Implementation Guidance for Korea - Strengthening the governance of adult learning (Skills Studies). OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/f19a4560-en.
9. OECD (2023). OECD Economic Surveys: Viet Nam 2023. OECD Publishing.
10. SkillsFuture Singapore. (2025). About SkillsFuture/About SSG.
11. The Diplomat (2020). South Korea’s Digital New Deal, https://www.msit.go.kr/eng/bbs/view.do?.
12. Tổng cục Thống kê (2024). Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023.
13. World Bank (2022-2024). Assessing the demand for digital skills in Vietnam (EAP regional work). https://documents.worldbank.org/.
14. World Economic Forum. (2025). The Future of Jobs Report 2025. World Economic Forum.
| Ngày nhận bài: 25/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 18/10/2025; Ngày duyệt đăng: 6/11/2025 |



Bình luận